Tinh hoa Việt Nam lấp lánh khắp năm châu
Hẳn Là Thiếu Nhi Việt Nam Khi Hát Lên "Trái Đất Này Là Của Chúng Mình " (1) rồi sẽ không chỉ vì yêu cái "Quả Bóng Xanh Bay Giữa Trời Xanh" (1) mà còn vì một điều thiết thực hơn, thân thiết hơn: Ở đâu trên mặt đất này các em cũng được biết đều có ruột thịt mình, đồng bào mình. Dừng lại giữa một trang giấy ngước nhìn nắng trời trong vắt hay thức dậy giữa đêm với tiếng gió thì thào ta đều có thể nghe từ một kinh tuyến nào đó tiếng người Việt Nam đang giảng bài trong giảng đường, bàn tay khéo léo Việt Nam đang dính mũi hàn bé xíu vào một mạng vi mạch hay thậm chí bước chân Việt Nam đang đặt lên con tàu vũ trụ... Ngày nay, người Việt Nam đang có mặt trên 80 quốc gia lớn nhỏ khắp năm châu. Theo Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, dân số Việt Nam phân bố tại một số nước trên thế giới như sau: Hoa Kỳ: 950.000 người; Pháp: 250.000 người; Canada: 180.000 người; Úc: 160.000 người; Thái Lan: 120.000 người; Đức: 100.000 người; Liên Xô cũ và các nước Đông Ấu: 100.000 người; 10 nước Thị Trường Chung Châu Ấu: 56.000 người; Đài Loan: 15.000 người; Bắc Ấu (Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan): 15.000 người; Mêhicô, Chi lê, Brazin: 15.000 người; Nhật:10.000 người; Niu Zilân: 8.000 người; Thụy Sĩ: 7.400 người; Philipin: 5.000 người; Indonexia: 5.000 người; Hồng Kông: 4.500 người; Niu Calêdôni: 4.000 người; Ần Độ: 2.000 người; Singapo: 2.000 người; Triều Tiên: 2.000 người; Irak: 2.000 người; Malaysia: 1.200 người; Hàn Quốc: 1.000 người; Ai Cập: 1.000 người; Algêri: 1.000 người; Pakixtan: 1.000 người; Bangladet: 500 người; Maroc: 500 người; v.v... Những con số này đã thay đổi ít nhiều. Vài năm gần đây anh chị em sang lao động và học nghề ở Hàn Quốc tăng lên nên con số 1.000 chắc đã bị vượt qua nhiều lắm. Tại Hoa Kỳ, trước tháng 4 năm 1975 đã có khoảng 6.000 người Việt Nam sinh sống. Năm 1975, làn sóng di cư đầu tiên đã đưa 135.000 công dân Việt Nam ồ ạt đến Mỹ. Từ bấy, ngoài số "thuyền nhân" bổ sung hàng năm còn có sự phát triển từ nguồn gia tăng dân số cho nên cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ đã lên đến trên một triệu người. Bang California có những cây cọ giống dừa Bến Tre, có những cây gạo nở màu hoa đào, có khí hậu dìu dịu như thu Nha Trang đã thu hút khoảng nửa triệu người. Ngoài ra: Texas có 69.700 người, Washington có 42.500 người, NiuOc có 32.700 người, Minesota - 32.700, Massachuset - 29.000, Ilinoi - 28.900, Pensivania - 28.800, Virginia - 2.800, Oregon - 20.400, Florida - 17.000... Những người Việt Nam ra đi sau 1975 hầu hết lập nghiệp từ hai bàn tay trắng. Những ngày đầu bà con ta phải vật lộn với cuộc sống ở xứ người hết sức gian nan chật vật. Tuy vậy, mới sau 20 năm, cộng đồng người Việt Nam ở các nước đều đã phát triển rất mạnh mẽ. Ở Hoa Kỳ, chính quyền và nhân dân sở tại đều cho rằng đây là một cộng đồng đầy tiềm năng, có sức sáng tạo dồi dào về nhiều mặt và đã có bước tiến vượt trội hơn cả một số cộng đồng từng có lịch sử tồn tại lâu đời trên đất Mỹ. Từ hai bàn tay trắng, mới qua 20 năm, chắc chắn chưa ai có thể trở thành tỷ phú. Vậy mà triệu phú đô la thì số lượng đã không thể đếm bằng hàng đơn vị. Nói chung bà con ta chưa giàu có lắm nhưng đều khá giả hoặc đã xây dựng được cuộc sống có căn bản. Hình như nhận xét "Trong số bà con ra đi sau 1975, gần một nửa vẫn sống một phần nhờ trợ cấp xã hội của nước sở tại" mà anh Phạm Khắc Lãm viết ở báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 5 tháng 7 năm 1996 là không thật đúng. Theo một tài liệu thống kê, 18% số gia đình Việt Nam sống ở nước ngoài có lợi tức trên 35.000 USD hàng năm và 16% số gia đình có lợi tức trên 25.000 USD hàng năm. Tại các thành phố lớn ở nhiều quốc gia mà người Việt Nam định cư đông đúc hầu như đều có các khu thương mại phồn thịnh. Khu phố lớn của Quận Cam - Nam Califonia với khoảng 800 doanh nghiệp lớn và nhỏ của Việt Nam đã được ông Thống Đốc tiểu bang chính thức đặt tên là "Siêu thị Sài Gòn nhỏ" vào ngày 17 tháng 6 năm 1991. Ở thành phố Calgari - tỉnh Alberta có phố Tàu trước đây sầm uất với toàn là doanh nhân Trung Quốc. Nay các cửa hàng Việt Nam đã chiếm tới 70%. Ở thành phố Montreal chỉ riêng các hoạt động dịch vụ và thương mại của 40 nghìn người Việt Nam đã thu lợi tức hàng năm đến 200 triệu USD. Tại Vancouver có tới hơn 200 tàu thuyền đánh cá (chiếm khoảng một phần ba số tàu đánh cá ở địa phương) được trang bị máy móc rất hiện đại do người Việt Nam làm chủ. Tại British Columbia, người Việt đã trở thành lực lượng đáng kể trong mọi ngành nghề chế tạo và sản xuất. Trong một số hãng xưởng có doanh thu hàng chục triệu đô la Úc, công nhân Việt Nam giữ vai trò nòng cốt, nhiều người quản lý và điều hành các bộ phận rất quan trọng. Kể về những tấm gương thành đạt nổi bật trong kinh doanh người ta thường nhắc đến "Bạch Thủ Thành Gia" Trần Dũ. Ông vốn xuất thân từ một gia đình nghèo khổ ở Sóc Trăng đến mức lên bốn vẫn không có một manh áo để mặc. Ở tuổi "quá niên tứ tuần" ông mới có nổi tấm bằng kỹ thuật viên điện tử để được vào làm công cho một cơ sở sửa chữa TV nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, vì làm ăn thất bại, cơ sở này phải đóng cửa, ông lâm vào cảnh thất nghiệp. Vậy mà, đến ngày 23 tháng 5 năm 1991 ông đã được dân biểu Robert K. Dornan thay mặt Quốc Hội Hoa Kỳ trao tặng huy chương "Nhân vật thành công nhất về doanh nghiệp" (Business Man of the Year Award) năm 1990 tại Hoa Kỳ. " Hiện nay ông Trần Dũ là một doanh gia nổi tiếng không chỉ riêng ở Hoa Kỳ mà còn ở một số các quốc gia khác chú trọng về thương mại. Người ta xem ông là tấm gương thành công cho những ai muốn khởi nghiệp kinh doanh bằng số vốn hạn hẹp, hoặc tay trắng. Nếu chúng tôi không lầm thì đây chính là lý do mà đài truyền hình Nhật đã chi ra một phí khoản lớn, và tốn rất nhiều công lao cho việc thâu thập tài liệu về ông Trần Dũ để phổ biến với quảng đại quần chúng Nhật" (2). Kỷ giả Hoa Kỳ Herbert Lockwood cũng từng viết trên báo San Diego Daily Transcript về một người khác - kỹ sư công chính Trần Trọng Quang như sau: "Mười năm
trước, Joe Quang Trần cùng gia đình sống mỏi mòn ở một trung tâm tái định cư
tại một vùng hẻo lánh ở tiểu bang Arkansas, trong tình trạng vô gia cư, kiệt
quệ và hoang mang. Số lượng người thành công trong kinh tế và nhiều lĩnh vực khác tăng lên nhanh chóng không những tạo được uy tín lớn mà còn gây được ảnh hưởng đáng kể đối với việc hình thành và thực thi các chính sách quốc gia sở tại, do vậy, nhiều người Việt Nam đã trúng cử vào các cơ quan lập pháp, hành pháp ở địa phương và trung ương của các nước đó. Tại hai thành phố Sydney và Melbourne có đến 6 Nghị viên Hội Đồng Địa Phương là người Việt Nam. Trong đó, một phụ nữ được bổ nhiệm Phó Thị trưởng, còn nghị viên Nguyễn Sang, 28 tuổi, không những có vinh dự là vị Thị trưởng trẻ nhất của thành phố Richmond từ trước đến giờ mà còn là người gốc Á châu đầu tiên được bầu vào chức vụ Thị trưởng ở Úc. Nếu tiến sỹ Vũ Thị Ngọc Trang là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử Australia được bổ nhiệm vào cơ quan cao cấp nhất của ngành giáo dục - Viện Khoa Học Kỹ Thuật Hoàng Gia, đồng thời là Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Xã Hội Học Thực Nghiệm ở Úc, thì giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, một nhà khoa học thông thạo 7 ngoại ngữ, từng được giao trách nhiệm Phó Tổng Giám Đốc Văn Phòng Giáo Dục Song Ngữ Và Các Vấn Đề Ngôn Ngữ Thiểu Số của chính phủ Hoa Kỳ. Ông là một trong 150 người được Tổng Thống tuyển chọn đề cử và được Thượng Viện Hoa Kỳ chấp thuận. Nếu tiến sĩ Nguyễn Trần Hương, sinh năm 1954, từng được tuyên dương là nữ giáo sư xuất sắc nhất Hoa Kỳ năm 1994 và đã được mời giữ chức Chánh Thanh Tra Bộ Giáo Dục Mỹ thì giáo sư tiến sỹ sử học Trần Mỹ Vân là người phụ nữ châu Á duy nhất đã được chính phủ Liên Bang Úc, các vị toàn quyền và các Hội Đồng Tối Cao của Úc châu bổ nhiệm vào nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền: - Thành viên
của Hội Đồng Dân Số Úc Châu Ông Peter Howieson, hiệu trưởng trường trung học Swanbourne ở miền Tây Liên Bang Úc đã thốt lên một dự báo "Chỉ 30 năm nữa, xứ sở Úc châu này sẽ do những người Việt Nam và Á châu lãnh đạo". Dẫu thế nào đi nữa, những biểu tượng xuất sắc về kinh doanh hay quản trị đều không thể so sánh với những thành tựu về học vấn. Môi trường để tinh hoa Việt Nam lóng lánh sáng nổi bật là ở nơi học đường và trong các lĩnh vực của khoa học và công nghệ. Tác giả Trọng Minh trong hai tập của bộ sách "Vẻ Vang Dân Việt" có biểu dương 137 tấm gương sáng thuộc 5 lĩnh vực: "Khoa Học và Kỹ Thuật", "Thương Mại", "Văn Học và Nghệ Thuật", "Xã Hội", "Nơi Sân Trường", thì khoa học và kỹ thuật được đưa lên hàng đầu với 42 ngôi sao lấp lánh cùng với 45 mầm xanh trong học đường đang vươn lên vun vút. Đó là "Nguyễn Minh Đăng, 13 tuổi, đang học lớp 7 tại trung học Albert Einstein tại Sacramento vì rất giỏi môn Toán, nên được nhà trường mướn để kèm cho các em học sinh khác với số lương 15 Mỹ kim một giờ" (2). Đó là Lương Thị Kim Linh, lúc 11 tuổi đã được Hội Đồng Giảng Sư Quốc Tử Giám Vương Quốc Hà Lan giám định có thể sẽ là thần đồng của thế kỷ. Sinh năm 1975 tại Việt Nam, đến định cư tại Hà Lan năm 1982, "sau ba năm theo học hết sáu lớp bậc tiểu học cô đã có thể đọc đúng và nghe hiểu 9 ngôn ngữ gốc Indo - German và tiếng Việt Nam" (2). Đó là Nguyễn Long Quang đoạt giải nhất trong 16.069 bài đăng ký dự thi toàn quốc ở Hoa Kỳ về thơ Haiku của Nhật. Em đã được Thống Đốc tiểu bang Virginia mở tiệc chiêu đãi, "được họp báo với hầu hết các phương tiện truyền thông ở Richmond kể cả ba đài truyền hình lớn của Hoa Kỳ (CBS, ABC, NBC)" (2). Bà Mary A. Marshall, dân biểu thuộc Hạ Viện tiểu bang Virginia đã phát biểu "Việc em đoạt giải nhất trong khu vực tiểu học nhân kỳ thi toàn quốc về thơ Haiku đã làm cho tất cả mọi người ở Arlington rất sung sướng." Đó là Trần Minh Anh Thư đỗ đầu trong kỳ thi Tú tài toàn quốc Phần Lan. Một tuần báo kỳ cựu và rất có uy tín ở Phần Lan đã đăng tin như sau "Một học sinh Việt Nam, cô Trần Minh Anh Thư, hiện phục vụ ở Viện Thí Nghiệm Sero - Bacterologi thuộc đại học Y khoa Helsinski, đã đạt một thành tích ít ai có thể ngờ tới: Sau 6 năm định cư ở Phần Lan cô vừa mới đậu kỳ thi tốt nghiệp trung học toàn quốc với số điểm tối ưu". Đó là Trần Tuấn Đức, lúc 13 tuổi đã được đại học Johns Hopkins tuyển vào "Chương Trình Khám Phá Và Đào Tạo Các Thiếu Niên Có Thiên Tài " căn cứ vào chỉ số thông minh (I.Q.) lên đến 175 điểm và số điểm trắc nghiệm về năng khiếu học (S.A.T.) là 1550 điểm. Năm 18 tuổi, em là sinh viên trẻ tuổi nhất tốt nghiệp đại học Virginia ở Charlottesville. Chẳng những thế em còn học để lấy được tới 150 tín chỉ trong khi chỉ cần 120 tín chỉ là đủ để tốt nghiệp. Đó là Nguyễn Vương Cát Khanh được chọn là "Nữ sinh đứng hàng đầu và có giá trị nhất của Hoa Kỳ" (The Top Girl Most Valuable Student of the United State of America) niên khóa 1990 - 1991. Là Phan Thị Mai đoạt giải nhất cuộc thi viết truyện thiếu nhi ở Hà Lan. Là Phan Quốc Việt đoạt huy chương vàng Hóa Học toàn quốc Úc. Là Lê thị Ngọc Phúc được chọn là một trong 20 học sinh xuất sắc nhất Hoa Kỳ. Là Trần Quốc Vũ, học sinh lớp 6 trường Thomas Paine ở Garden Grove, California, đã được Tổng Thống George Bush trao bằng khen thưởng ngoại hạng tất cả các môn học (2). Là Nguyễn Lý Kỳ Duyên sinh năm 1969, 13 tuổi học đại học, 17 tuổi đỗ cử nhân, 22 tuổi nhận học vị tiến sỹ. Là Nguyễn Công Thụy đã từng được tuyển chọn tham dự Hội Nghị Các Nhà Lãnh Đạo Trẻ Toàn Quốc (The National Young Leaders Conference) tổ chức tại Washington D.C., ngoài ra em còn được nhận làm hội viên của Hội Danh Dự Toàn Quốc ( National Honor Society) và được đăng tiểu sử trong "Who's Who Among America High School Student." Học sinh Việt Nam đạt thành tích xuất sắc trong các trường học ở nước ngoài không chỉ vì cái gien ưu tú của giòng dõi Lạc Hồng mà còn vì " Chúng tôi nguyện hy sinh làm việc khó nhọc đến đâu cũng được miễn sao con cái học hành nên người là chúng tôi vui rồi" (lời phát biểu của một chủ tiệm may ở Westminster); còn vì "Các giáo sư thích dạy các học sinh sắc tộc hơn vì các học sinh này lễ phép, chăm chỉ và chịu nghe lời hơn. Các học sinh Việt Nam và Á châu ham học, trọng kỷ luật, nghe lời cha mẹ và có ý chí vượt lên để hơn bạn bè " (lời phát biểu tiến sỹ Bullivant, giáo sư trường đại học Munash, Úc). Những yếu tố chủ quan tuyệt vời đó chỉ cần có môi trường khách quan thuận lợi là đơm đầy hoa thơm trái ngọt. Ở Mỹ, chính phủ không chỉ bao cấp mà còn có chính sách bắt buộc để các em phải được học hết lớp 12. Số trường đại học ở Mỹ kể cả lớn và nhỏ, công và tư lên tới 3.500. Trong đó có những trường rất nổi tiếng như: Harvard, Yale, Princeton, Brown, Dartmonth, Columbia, Cornell. Pennsylvania... Ở Canada, có nhiều lớp dạy tiếng Việt do Bộ Giáo Dục nước này tổ chức cho các em học sinh trung học từ lớp 10 đến lớp 12. Sau khi mãn khóa học, các em được cấp 1 tín chỉ (credit) tương đương với tín chỉ về toán, địa lý, sử ký... trong chương trình của các em. Ở Úc, tiếng Việt đã được công nhận như một sinh ngữ chính thức được giảng dạy tại cấp tiểu học và trung học trong các tiểu bang Nam Úc, Victoria và Tây Nam Úc. Từ 1986, hầu hết các trường đại học ở Liên Bang Úc đã tích cực giới thiệu Việt ngữ như một môn học chính trong các chương trình Cử nhân và Cao học. Sự chăm sóc của chính phủ các nước đối với học sinh Việt Nam đã đem lại một hiệu quả lưỡng lợi. Nền giáo dục Mỹ khởi sắc thêm là nhờ một phần đóng góp đáng kể của khối chất xám Việt Nam. Một số người ở các nước sở tại đã nêu nhận xét "họ (Việt Nam) rồi cũng giống như người Do Thái trên đất này." Thành tâm tin cậy ở các thế hệ trẻ Việt Nam, giáo sư viện sĩ Nguyễn Xuân Vinh từng tâm sự trong tập tùy bút "Theo Ánh Tinh Cầu" của mình như sau: "... Tôi viết tặng các bạn trẻ, lòng những mong rằng thế hệ của tôi chỉ là lớp người đi trước đặt những viên đá sơ sài lót đường... Sau này các bạn sẽ đạt được những thành công rực rỡ xây thành một đại lộ thênh thang cho toàn thể những người Việt cùng tiến bước, cho non sông được mở mặt với đời. Mong mỏi các bạn được giải thưởng Nobel về khoa học, hay một giải văn chương quốc tế, hay giải Oscar về điện ảnh..." Đối với bản thân nhà bác học Nguyễn Xuân Vinh, tác giả "Vẻ Vang Dân Việt" - Trọng Minh cho rằng "Nếu viết về tiểu sử của giáo sư Nguyễn Xuân Vinh tức là nhà văn Toàn Phong thật đầy đủ chi tiết thì cả tuyển tập này cũng không đủ, vì ở ông là cả một bầu trời rực rỡ ánh hào quang, và có rất nhiều huyền thoại về ông tuyệt vời như những câu chuyện thần thoại hoang đường" (2) Năm 1965, ông
là người đầu tiên được cấp bằng tiến sĩ về khoa học không gian tại đại học
Colorado. Năm 1972 ông lai bảo vệ thắng lợi luận án tiến sĩ quốc gia toán
học tại đại học Paris.
Cùng trong ngành khoa học không gian còn có phi hành gia Hoa Kỳ gốc Việt đầu tiên Trịnh Hữu Châu. Ông đậu tiến sĩ về Vật Lý Ứng Dụng tại đại học Yale, Connecticut vào năm 28 tuổi. Từ 1979, ông làm việc với cương vị hậu tiến sĩ (Post Doctoral Fellow) và đã trở thành cán bộ của Phòng Thí Nghiệm Sức Đẩy Phản Lực vào năm 1980. Ông là người phát minh những thiết bị do trọng lực yếu (Low gravity) đặt trong phản lực cơ KC-133 của NASA. Hiện nay ông đang nghiên cứu về kỹ thuật điều khiển chất lỏng không bình chứa cho các trạm không gian. Theo nhật báo Los Angeles Times, một trong những nhà tổ chức những buổi nói chuyện của tiến sĩ Trịnh Hữu Châu đã nói về ông như sau: "Chúng tôi muốn cho các thanh niên Việt Nam biết rằng hiện nay họ có một vị anh hùng để lấy thế làm tự hào và hãnh diện". Cùng với Nguyễn Xuân Vinh, Trịnh Hữu Châu, còn có Phạm Hoàng Bắc - kỹ sư thiết kế trạm hàng không vũ trụ; Đặng Quốc Thông - kiểm soát viên các chương trình khảo sát của NASA; Trịnh Xuân Thuận, sinh năm 1948, tiến sỹ thiên văn học, giáo sư thiên văn học hàng đầu của Hoa Kỳ; Nguyễn Mạnh Tiến, sinh năm 1957, bảo vệ luận án tiến sỹ Điện Từ với đề tài "Nghiên Cứu Hệ Thống Truyền Thông Vũ Trụ Trong Điều Kiện Có Nhiễu Trắng Và Các Tín Hiệu Giao Thoa ", bảo vệ luận án tiến sỹ toán học với đề tài "Mô Hình Toán Và Kỹ Thuật Xử Lý Tín Hiệu Số Trong Các Hệ Thống Truyền Thông Số Hóa Hiện Đại", một trong những chuyên gia chủ chốt của chương trình nghiên cứu tiêu chuẩn quốc tế cho những hệ thống điều biến và hệ thống viễn liên trong thám hiểm Sao Hỏa. Bác sĩ Trương Dũng, sinh năm 1949, giám đốc Trung Tâm Bệnh Parkinson và Bệnh Xáo Trộn Cử Động tại đại học Irvine, người từng được ký giả Susan Paterno viết trên báo Los Angeles Times: "Người trị bệnh giãn cơ lực (Dystonia) tài tình", đã từng về Việt Nam công tác và đã được các cơ quan truyền thông của ta giới thiệu khá nhiều. Có một người
Việt Nam được xem là đã đóng góp một phần quan trọng vào các công trình
nghiên cứu bệnh AIDS và bệnh ung thư. Đó là giáo sư Nguyễn Hữu Xương. Thật
ra, Nguyễn Hữu Xương là nhà vật lý. Trong đội ngũ những nhà khoa học Việt Nam nổi tiếng thế giới về ngành Y phải kể đến bác sỹ Nguyễn Phú Du, tiến sỹ chuyên ngành giải phẩu tim, được xem là một bác sĩ danh tiếng nhất về tim học của bệnh viện Stegemuhbenweg, Tây Đức; bác sỹ Nguyễn Thế Thứ, chuyên gia về Chiropratic (chữa trị các bệnh về xương); giáo sư Đinh Xuân Anh Tuấn hai bằng tiến sỹ, được hai giải thưởng quốc tế cho công trình nghiên cứu về vai trò của chất EDRF ( Endothelium - Derived Relaxing Factor) trong sự điều hòa vận chuyển của máu trong tim người; bác sĩ Nguyễn Đỗ Duy, chuyên gia nổi tiếng thế giới về giải phẩu mạch máu; v.v... Tại một Hội
Nghị Quốc Tế về Giao Thông, đến phiên nước Úc trình bày, người điều khiển
chương trình giới thiệu một công dân Úc rất trẻ, rất nhỏ con, rất Á châu.
Giọng loa phát âm lơ lớ tên Nguyên Van Ngooc, một kỹ sư tiến sĩ đậu hạng tối
danh dự, có quốc tịch gốc là người Việt Nam. Cả hội trường đột nhiên im
lặng, để rồi tiếp theo là một tràng pháo tay kéo dài ròn rã. Anh Ngọc trình
bày về đại cương kỹ thuật của hệ thống đèn đường mới, phần lớn do anh phát
minh có tính cách đơn giản hơn, rẻ hơn, tiện lợi hơn, an toàn hơn hệ thống
đèn lưu thông của Mỹ và cụ thể là tiết kiệm được khoảng 50 triệu USD/mỗi
ngày cho nước Mỹ. (2). Trong lĩnh vực nông học có giáo sư Nguyễn Kha, ông sinh năm 1922, tốt nghiệp kỹ sư Thủy Lâm năm 1962, tiến sĩ năm 1965 với đề tài "Đặc Tính Và Qui Luật Phát Triển Của Loại Đất Pelesols". Ông là tiến sĩ Thổ Nhưỡng Học Việt Nam đầu tiên được tiến cử vào Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học Pháp. Đồng nghiệp với giáo sư Nguyễn Kha còn có tiến sĩ Nguyễn Viết Trương, người từng được Liên Hiệp Quốc tặng thưởng về công trình nghiên cứu chống sói mòn đất đai, được ghi danh trong cuốn "Danh Nhân Đông Nam Á", hiện đang phụ trách chương trình sử dụng thực vật để chống sói mòn đất đai cho cả tiểu bang Queensland và là đại diện của Queensland trong Hội Đồng Quốc Gia Úc về nghiên cứu triển khai các phương thức tái tạo cây cỏ trong vùng đất mặn. *** Bài viết đã khá dài nhưng tôi vẫn chưa đề cập được đến những tinh hoa Việt Nam bên trong lãnh thổ. Cần rất nhiều trang viết nữa mới có thể điểm qua một phần những tấm gương lao động tuyệt vời, những tài năng xuất chúng của giáo sư viện sỹ Trần Đại Nghĩa, của giáo sư tiến sỹ Đỗ Tất Lợi, của giáo sư Đào Duy Anh, giáo sư Nguyễn Hoàng Phương, giáo sư Đàm Trung Đồn ... cùng hàng trăm thanh thiếu niên Việt Nam từng đoạt giải quốc tế về Toán, Lý, Hóa, Ấm nhạc... Ngay đối với cộng đồng người Việt ở các nước phương Tây thì ở đây cũng còn biểu hiện rất nhiều thiếu sót. Cộng đồng người Việt ở Pháp vừa lâu đời, vừa khá đông. Ở đấy có cụ Hoàng Xuân Hãn, nhà bác học lão thành khả kính, có Trương Trọng Thi - nhà phát minh máy computer, có cả đồng nghiệp của tôi - giáo sư tiến sỹ Phạm Văn Ngọc, người đã từng đem chiếc máy thăm dò điện từ tự sáng chế về góp phần nghiên cứu địa chất và khảo sát nước ngầm ở đồng bằng sông Cửu long trong mấy năm gần đây v.v... Vậy mà tôi đã không dẫn chứng được bao nhiêu. Nguyên do là vì thiếu tài liệu. Bởi vậy, tôi càng thấy trân trọng và xin chân thành cảm ơn tác giả bộ sách "Vẻ Vang Dân Việt" không chỉ vì đã cung cấp một phần tư liệu tốt cho bài viết này mà còn vì đã gây cho tôi lòng tin yêu và quý trọng đối với bộ phận dân tộc mình đang xây dựng cuộc sống tốt đẹp, đang lao động sáng tạo vẻ vang ở rải rác khắp nơi trên mặt hành tinh này. Tôi thực sự vui mừng khi được biết với không đầy hai triệu người, bà con mình sống ở nước ngoài mới qua 20 năm đã xây dựng thành công một lực lượng trí thức đến 200.000 người hoặc sắp tốt nghiệp đại học hoặc đã có bằng cử nhân, tiến sỹ, viện sỹ... Nếu tính cả kỹ thuật viên, cán sự... thì con số còn lên tới 400.000. Đây là một tỷ lệ về học vấn cao hơn nhiều so với trong nước. Trước đây tôi đã từng vô cùng tự hào với con số 9000 luận án tiến sỹ, phó tiến sỹ được hoàn thành trong hoàn cảnh chiến tranh và đói khổ ở trong nước thì ngày nay tôi càng sững sờ trước con số 2037 tiến sỹ, 15.099 thạc sỹ và tương đương, 57.862 cử nhân (con số thống kê trong năm 1990) của đồng bào ta ở nước ngoài. Nếu đấy là con số đúng thì thật đáng mừng biết bao. Năm 1989, sau chuyến đi Hoa Kỳ đầu tiên trở về tôi đã dám viết một cách rụt rè: "Những người Việt Nam bỏ nước ra đi sẽ đem lại bao nhiêu phúc, bao nhiêu họa cho dân tộc. Điều này chưa được thảo luận kỹ và cũng chưa nên khẳng định một cách hàm hồ. Chỉ biết: không phúc nào không có khả năng biến thành họa, không cái họa nào không có khả năng ủ mầm nẩy sinh ra cái phúc... Vấn đề đồng bào ta ở nước ngoài phải được ghi nhận là một đặc điểm mới của Tổ Quốc, của cách mạng Việt Nam. Nó chưa hề xuất hiện trong các giai đoạn lịch sử trước đây. Đây là vấn đề vừa phát sinh từ sau 1975 và nó sẽ còn phát triển lâu dài, phức tạp. Bởi vậy nó phải được quan tâm đúng mức, như một trong những vấn đề quốc sách và Đảng cần đặt vào đây một nhiệm vụ chiến lược..." (3) Ngày nay, trước nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước rất cấp bách ta mới bàng hoàng nhận ra "Đội ngũ những người làm khoa học và công nghệ khá đông nhưng không mạnh, còn mất cân đối nghiêm trọng về cơ cấu ngành nghề và trình độ, lại chưa được tạo điều kiện tốt để làm việc và nâng cao trình độ chuyên môn. Nền khoa học và công nghệ nước ta chưa có vị trí xứng đáng trong hệ thống kinh tế - xã hội và chưa thật sự phát huy được động lực mạnh mẽ với quá trình phát triển kinh tế - xã hội." (4) May sao, rất có thể bộ phận đồng bào đang sống xa Tổ Quốc sẽ góp phần bổ trợ đắc lực cho những khiếm khuyết vừa nêu trên của chúng ta. Một khối lượng cán bộ khoa học kỹ thuật dồi dào, đa dạng được đào tạo và được tiếp xúc với thực tế ở 80 nước, trong đó bao gồm tất cả các nước tiên tiến nhất sẽ trở thành tiềm năng vô giá cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa không nước nào có được. Phải chăng đây là diễm phúc lớn mà ta sẽ được bù đắp sau bao nhiêu đau thương, tan tác của chiến tranh. Vấn đề còn lại là chính sách thu dụng nhân tài và môi trường xã hội - chính trị thích ứng mà ta cần tạo ra để hội tụ được những tinh hoa đang lấp lánh khắp năm châu về thắp lên sáng bừng quê hương Việt Nam, xứ sở của : "địa linh nhân kiệt". Los Angeles
tháng 9 1- Lời
một bài hát thiếu nhi, phổ thơ Định Hải
|