Tản mạn về người
viết Quốc ca Việt Nam
Nguyễn
Thanh Giang
Tản mạn
về người viết Quốc ca Việt Nam
(Nhân 60
năm ngày nhạc sĩ Văn Cao viết Tiến quân Ca)
Chuẩn bị
tiễn Văn Cao rời thành phố Hồ Chí Minh về Hà Nội hôm
mồng 5 tháng 8 năm 1993, nhà thơ Đỗ Trung Quân có
đêm đã hình dung thấy ở trên trời: “Ngày mai có một
chuyến bay cất cánh, tóc ông và mây, cái nào trắng
hơn?”.
Cho đến bây giờ, nhìn lên những đám mây trắng ấy,
cũng thế, tôi như vẫn thấy một Văn Cao tiên phong
đạo cốt lãng đãng đâu chốn Thiên Thai, trên một
chiếc thuyền lan, dưới hoa, bâng khuâng chèo
khua nước Ngọc Tuyền, để nghe gió hát trầm
tiếng ca, tiếng phách ròn lắng xa. Để, trong cái
ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
huyền ảo kia, Văn Cao dõi tìm về quê hương, và lại
thấy:
Một
cánh tay sông Hồng
Một cánh tay sông Lô
Hai cánh tay
như ôm Trung du
thấy:
Một
nửa hình con trai
lấp
lánh sắc cầu vồng
một nửa mình trăng
nằm nghiêng trên cát biển
(Quy Nhơn 1, 31.3.1985)
thấy:
Từ
trời xanh
(Quy Nhơn 3, 15.4.1985)
Thấy những làng tôi xanh bóng tre, mà dưới
khóm lá lăn tăn lừng tiếng chuông, ban chiều,
thường có
Vài
ngôi nhà nho nhỏ
Vẫn ngày đêm lấp lánh
mang vết thương xưa
ngày đêm làm ngọc
(Quy Nhơn 1, 31.3.1985)
Ở đấy
tháng năm ấp ủ
Giấc
mơ của mái nhà
Giấc mơ của một người đang ngủ
(Giấc mơ, 5.1.1972)
… Vậy mà, Văn Cao ơi, sao ông vẫn không thôi khắc
khoải
tôi
không đi qua tôi
để lại gì?
(Không đề, 1967)
Không, ông đã để lại nhiều lắm.
Đến nỗi chúng tôi dù đi xa đến bất cứ xứ sở nào; dù
rồi đây, sẽ nằm sâu trong ba thước đất, chợt vẳng
nghe thơ, nhạc của ông, chợt hình dung lại những bức
tranh của ông, chúng tôi vẫn cứ còn như đang đi qua
suốt cuộc đời này da diết, vẫn cứ còn da diết lưu
luyến những chiều chưa đi sao gió vương? nơi
con suối mơ bên rừng thu vắng , nơi bát ngát
một dòng Lô với Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ
biếc chìm một mầu khói thu… của ông, của tôi,
của nhân dân Việt Nam, của cả thế gian này.
Làm sao ngợi ca ông cho xứng tâm tưởng tôi hằng tôn
vinh ông. Chỉ xin có đôi dòng tản mạn thắp lên mấy
nén hương trầm dâng tặng ông.
I.
Sinh ra tôi đã có Hải Phòng
Câu thơ mở đầu trường ca Những người trên cửa
biển này Văn Cao viết năm 1956. Sau này Nguyễn
Khoa Điềm phóng tác thành: “Khi ta lớn lên đất nước
đã có rồi”. Không biết câu thơ là Sinh tôi ra…
hay phải là Sinh ra tôi… thì mới đúng (Vì
trong Tuyển tập thơ Văn Cao ông đề tặng nhà
văn Sơn Tùng, tôi thấy ông chữa bằng viết tay: “Sinh
ra tôi”, trong khi ở các tập sách khác đều là “Sinh
tôi ra”). Dẫu sao, đọc câu thơ trên, nhiều khi tôi
cứ lẫn lộn, không biết Hải Phòng đã sinh ra ông hay
ông đã góp phần sinh ra Hải Phòng. Cũng như chúa
Giêsu sinh ra trong máng cỏ, hay chính Người đã sinh
ra hoa trái cho đời?
Ngày Văn Cao chào đời, Đầu nhà mới trồng cây mận.
Thật hạnh phúc cho cây mận nào được sinh cùng với
ông. Để rồi… đau buồn sao cho cây sấu già trước sân
nhà ông bỗng cùng gẫy đổ ngày ông mất; lúc 4 giờ
sáng mồng 10 tháng 7 năm 1995.
Tuổi thơ ông, Hải Phòng sao ảm đạm quá:
Gió
biển thổi về trắng trời, trắng đất
Mười năm chưa nguôi nổi
Mái rạ bờ tre xưa
Cả cuộc đời chỉ thấy rơi nước mắt
Chỉ nghe tiếng thở dài…
(Ai biết Hải Phòng là đâu, 1956)
Thời đó Hải Phòng chỉ đủ nuôi
Những cuộc đời sau bức tường xám xa,
Những bức tường hàng chục năm mưa nắng
Trong từng ô từng cửa sổ của dãy phố ven sông
Từng căn gác nhỏ chênh vênh chiếc dây phơi quần
áo
Từng cái hầm nhà lom nhom lửa bếp
Những lá thuyền chen chúc nép bên nhau
Qua chiếc lưới phơi thấp thoáng bóng người
Cả cuộc đời của những con hà long lánh
Bám chắc lấy chân cầu bao nhiêu năm trong bến…
(Những ngày báo hiệu mùa xuân, 1956)
Những con người cuối cùng tàn phế
Như những vỏ thùng dầu
Những đống than lò tắt lửa
Giạt ra bên ngoài thành phố
Đầu bờ cuối bãi lênh đênh
(Ai biết Hải Phòng là đâu, 1956)
Lớn lên, xa Hải Phòng, bỗng có ngày ông nhận được “Tin
từ Hải Phòng lên, cho biết mẹ tôi, các em và các
cháu tôi đang đói khổ. Bà đưa các cháu nhỏ ấy từ Nam
Định ra Hải Phòng, dọc đường đã để lạc mất đứa cháu
gái con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống
như đôi mắt con mèo con. Có thể nó nằm trong đám
người chết đói dọc đường năm ấy. Các anh tôi cũng
đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét hơn mọi
năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần
bản thảo và ký hoạ để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn
mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.” (Tại
sao tôi viết Quốc ca)
Vậy mà ông vẫn quả quyết:
Tôi
yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại
Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi
(Những ngày báo hiệu mùa xuân)
Thực ra Hải Phòng không phải quê gốc của ông:
Tôi
không có quê hương
Nghe đâu như Thái Bình, Hà Nam, Phủ Lý
Như Nam Định
Ruộng đất mênh mông trong tiếng hát
Quê mẹ quê cha cách một vườn trầu
(Ai biết Hải Phòng là đâu)
Gia đình ông là một trong những dòng người tha
phương đổ về cho Hải Phòng ngày một đô hội:
Những hàng ren hàng thêu Nam Định
Những thợ giỏi làng Hồ làng Bưởi
Những giọng ca hay nhất Bắc Ninh
Lũ lượt đi vào tỉnh
(Ai biết Hải Phòng là đâu)
II.
Thuở nhỏ lòng tôi hướng mãi…
Văn Cao họ Nguyễn, tên đầy đủ là Nguyễn Văn Cao.
Ngày 15 tháng 11 năm 1923, Văn Cao cất tiếng khóc
chào đời ở chân nhà máy nước Hải Phòng, trong một
căn nhà nhỏ nhìn ra bến Bính. Cụ thân sinh lúc bấy
giờ là giám đốc (thầy cai) nhà máy nước Hải Phòng.
Cậu bé Văn Cao có thời từng được ôtô đưa đón khi học
tiểu học ở trường Bonnal, Nhật đảo chính Pháp,
trường đổi tên thành trường Bình Chuẩn. Sau một thời
gian bị đóng cửa, tháng 11 năm 1948 trường được tái
lập và mang tên Ngô Quyền .
Năm 1985, về dự kỷ niệm 65 năm thành lập trường cũ,
Văn Cao đã ghi lai những ký ức học trò:
Ta
về tóc râu đã bạc
Sân trường hơn nửa thế kỷ trôi
đâu bạn bè xưa một thời trọc lốc
trong bức ảnh cởi trần quần đùi
Thầy giáo khuất lâu rồi
làm sao còn khi ta cũng sắp
ơi ấu thơ những mảnh báo in thạch
ai trong đời còn lưu giữ dùm ta
Ngay từ
năm học lớp Ba, Văn Cao đã cùng hai người bạn thân
là Trần Liễn và Doãn Tòng hý húi nấu thạch làm tiêu
bản in báo. Báo viết bằng mực tím, có số lượng đến
mấy trăm bản. Tờ báo hấp dẫn đến nỗi vượt khỏi khối
tiểu học, tán phát lên cả các lớp trung học.
Khi lên trung học, Văn Cao chuyển sang học trường
Saint Josef (nay là trường bồi dưỡng giáo viên Hải
Phòng). Ngoài giờ tới lớp, Văn Cao học võ với một
người tên là Tú. Để luyện cho võ nghệ cao cường,
người thanh niên mới lớn này, lúc thì nắm tay đấm
vào tường huỳnh huỵch, lúc thì duỗi bàn tay thẳng đơ
xọc vào thân cây chuối phập phập. Anh chàng còn bắt
chước Tạ Duy Hiển dỗ dành cô Diệp -em gái út- đứng
dang tay ép sát vào cánh cửa gỗ làm tiêu cho mình
biểu diễn tài phóng dao găm chi chít quanh người.
Trước biển, chàng thanh niên chí thú ôn văn luyện võ
đã mơ hồ những dự cảm lớn lao:
Thuở
nhỏ lòng tôi hướng mãi
Theo những con tầu biển ra đi
Đến những đất đai tưởng tượng
Những người anh thuỷ thủ kể cho nghe
Nơi mọc đêm đêm những ngôi sao biển
Rực rỡ chân trời những hạt lưu ly
Tôi bơi như con cá dưới nước
Vẫn không bơi dài ra tới biển
Tôi theo những thuyền cá ra khơi
Vẫn chưa đi tới chân trời
(Ai biết Hải Phòng là đâu?)
Ở chàng thanh niên mới lớn đó, chắc hẳn không phải
là lòng tự ty mà chính là sự tự thách đố. Cho nên,
sau lời cảm thán:
Cố
thét song lời tôi yếu quá
Ngựa đều chân chạy nhạc càng xa
(Ai về Kinh Bắc, 14.10.1941)
là những khẳng định quả quyết:
Ta
ngày nay đợi từng mùa bình tĩnh
Như những người ươm cây
Hái hoa trái tự tay mình vun xới
……
Tôi giờ đây liếm môi nóng bỏng
Nhìn ra biển bao la
Lòng hãy còn nhiều khát vọng
Biến
thành người khổng lồ kêu khát suốt ngày đêm
Là hoài vọng khôn cùng:
Nước
ngọt của ngàn sông
Bao giờ đổ đầy lòng biển
(Những ngày báo hiệu mùa xuân)
III.
Chân dung người nghệ sĩ đa tài
Nhà thơ Thanh Thảo khi viết về Văn Cao đã như
choáng váng, sũng sờ: “Trong một Văn Cao có quá
nhiều Văn Cao: Văn Cao thơ, Văn Cao hoạ, Văn Cao
hiệp sĩ, Văn Cao Quốc ca, Văn Cao rượu đế… Một Văn
Cao đa tài, đa nguyên, đa nạn… Một Văn Cao lặng lẽ
như chén rượu mỗi sớm, lặng lẽ như những dòng chữ
lít nhít trong sổ tay, lặng lẽ như Thơ…”.
Không, Văn Cao không chỉ là một nghệ sĩ đa tài, nhà
văn lão thành, giáo sư Đặng Thai Mai từng đánh giá:
“Văn Cao là một viên ngọc trên bức khảm văn hoá -
nghệ thuật của dân tộc Việt Nam”.
Phác hoạ cho được chân dung viên ngọc quý này thật
khó. Chỉ xin ra dẫn ra đây mấy mảng ký hoạ của nhiều
người đã gặp, đã cùng sống với Văn Cao:
Nhà văn Vũ Bằng: “Nói đến Văn Cao, ai cũng nhận là
anh duyên dáng, quyến rũ người nghe chuyện từ buổi
đầu gặp gỡ, và có những cử chỉ mã thượng dễ làm cho
các cô gái yêu mến… Anh bé nhỏ, ốm như Thâm Tâm mà
cũng cao hơn Thâm Tâm một chút, da hơi tai tái. Tóc
anh xoã xuống trán như một cái lưỡi trai, bơ phờ rủ
xuống cặp lông mày hơi rậm, mũi cao, tiếng nói rụt
rè và nhỏ. Cổ anh nhỏ, và điều làm cho người ta lưu
ý nhất là anh lộ hầu và mắt cũng hơi lộ nữa.”
Nhà thơ Vũ Cao: “…tôi thấy Văn Cao và Nguyễn Văn
Bổng đang nằm trên một chiếc giường tre. Bỗng Văn
Cao chăm chăm nhìn tôi hỏi: Nghe giọng ông có vẻ
người Nam Định lắm nhỉ? Tôi nghĩ: chắc vì anh ấy là
nhạc sĩ cho nên rất tinh khi nhận xét mọi thứ âm
thanh. Xong, anh nhắc đến núi Hồ, làng Gạo, chợ Hầu,
Trình Xuyên… Hoá ra anh với tôi là người cùng xã,
chỉ khác thôn. Mà sao một cái thôn, cái xã nghèo khổ
cơ cực như vậy, suốt nghìn năm không có lấy một ông
Thám, ông Bảng nào, vậy mà bỗng chốc lại nẩy sinh ra
một tài năng độc đáo như Văn Cao!”
Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo: “Đến bây giờ tôi vẫn nhớ
giọng vang trong của ông đọc thơ trong quán rượu.
Bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật
ông làm năm 1960 mà tôi tưởng ông vừa làm trong quán
rượu năm 1980 này. Chúng tôi nghe như nuốt từng lời
thơ ông vào tâm khảm. Khi ngấm rượu ông nói hay đến
nỗi tôi có cảm giác là đang nghe ông trong giáo
đường chứ không phải giữa chợ.”
Nhà văn Nam Dao: “Văn Cao ngẩng đầu lên, rướn thẳng
người. Những nốt nhạc nhẩy nhót trên chín bậc thinh
không. Văn Cao cúi xuống, những nốt nhạc chìm dần
vào những vực sâu tưởng sẽ mất hút. Văn Cao gục
xuống, tiếng đàn nghẹn lại tăm tích mơ hồ. Mắt anh
đầy nước mắt. Bỗng Văn Cao vùng dậy, râu tóc dựng
đứng. Râu tóc ấy đã bạc phơ, song cái xanh của con
người trong anh dẫu có chút bóng đen của đêm tối,
thì vẫn xanh. Tối hôm ấy, khi nắm tay Văn Cao tôi
thấy ươn ướt, thì ra Văn Cao đánh đàn thế nào mà
ngón tay ứa máu.”
Hoạ sĩ Tạ Tỵ: “Vào mùa đông năm 1948, trời bên ngoài
đen như than, mưa phùn, gió bấc. Chiếc mền Mỹ mỏng
teo làm chúng tôi rét không ngủ được. Văn Cao nằm
giữa, ngâm bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc
. Giọng ngâm làm da thịt tôi tê rợn. Nó âm u hơn cửa
Địa ngục. Nó rờn rợn như thể có ai đang cầm một
miếng mảnh chai cạo vào chiếc lóng tre khô. Nó ai
oán thê lương hơn một bãi sa trường sau giờ tác
chiến. Nó thấm vào hồn mình như từng giọt cường
toan… Văn Cao là mẫu người đặc biệt. Với vóc dáng
nhỏ nhắn. Với nụ cười lắng chìm không thành tiếng.
Với hàm răng ngắn, đều. Với đôi mắt lạnh lùng dễ sợ
lúc giận dữ và dịu hiền khi tâm hồn chìm du vào dòng
suy tưởng… Từng bước khảng khoát, Văn Cao hiên ngang
đi vào lòng mẹ Việt Nam và được tiếp nhận nồng hậu.
Chưa ai nghĩ tới và tưởng tượng nổi một Văn Cao
trước những đối nghịch lớn, chứa đựng trong cái vóc
dáng khiêm nhường ấy. Người ta có thể coi là huyền
thoại khi nói về một Văn Cao vẽ giấy bạc giả để chi
dùng trong khi hoạt động túng thiếu, đến lúc hành vi
bị lộ, đã rút súng colt 45 chĩa vào những người có
mặt, bắt họ giữ nguyên vị trí để mình rút lui, rồi
sau ngày 19 tháng 8, mang giấy bạc thật đến hoàn lại
số tiền đã trả bằng bạc giả với đôi lời xin lỗi… Văn
Cao uống hai chai đế, da mặt cứ tái đi và thái độ
vẫn ung dung hoà nhã như chưa uống giọt nào. Lúc
trước tôi đã nghe nói về tửu lượng và sức hút thuốc
phiện của Văn Cao. Theo anh em, Văn Cao có thể hút
sáu bẩy mươi điếu liền trong một tối và uống tối
thiểu một chai cô-nhắc sếch. Lúc vui, tôi hỏi, Văn
Cao xác nhận: “Đúng! moa uống và hút thế đó.
Nhưng không nghiện thứ nào cả, có cũng vui, không
cũng chẳng sao”. Nói xong Văn cười, nụ cười không
thành tiếng, tôi chỉ nhìn thấy hàm răng trắng nhỏ
đều lấp lánh bên ánh đèn dầu lửa…”
Nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha: “Đêm cuối xuân 1945. Gió
rét. Hải Phòng chìm trong bóng tối. Một thanh niên
nhỏ nhắn lạ mặt xuất hiện ở ‘vườn hoa đưa người’.
Không ai biết đấy là Văn Cao. Cải trang từ Hà Nội,
khi về Hải Phòng ập vào nhà Doãn Tòng, không ai nhận
ra Văn Cao. Đêm nay, vẫn hình thù ấy, mặt mũi ấy,
Văn Cao đến ‘vườn hoa đưa người’, trong ngực giấu
một khẩu Colt to và một khẩu Browning bé xíu.”
Nhà điện ảnh Nguyễn Hà: “Điều quan ngại nhất, sức
khoẻ của ông quá kém. Tuổi mới 70 nhưng trong mình
ông chứa đầy bệnh tật đã thành mãn tính. Một đốt
xương sống bị gẫy. Tim, gan, bao tử đều có chuyện.
Huyết áp trồi trụt vô thường. Oái oăm, muốn bồi
dưỡng thì ông lại biếng ăn. Ngày chỉ hai chén súp
nhỏ hoặc vài ly sữa. Sức khoẻ chủ yếu được duy trì
bằng mỗi bữa vài ly rượu tăm trong vắt. Cũng như
Nguyễn Tuân xưa kia, ông bảo đấy là ‘tinh của gạo’.”
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Anh Văn ngồi. Ngồi ở sạp gỗ
cũ kỹ như đã ngồi hàng trăm năm. Ngồi tóc bạc phơ,
râu cũng bạc phơ. Chỗ ngồi đã mòn. Lưng dựa đã mòn.
Ngồi như thế có ích gì, anh Văn… Cho đến bây giờ tôi
vẫn bị ám ảnh bởi cái không khí ảm đạm, cô đơn của
những mùa thu đông ở Hà Nội, với hình ảnh một Văn
Cao ngồi một mình với cốc rượu trước mặt ngày này
qua ngày khác. Anh ngồi đó mà như một sự vắng mặt
trước cuộc sống. Ngồi hơn hai mươi năm như một cái
bóng. Ly rượu cũng biến thành cái bóng. Cái bóng của
hai người. Người và ly-rượu-người. Thân thiết và
chia sẻ cùng nhau những nỗi đời riêng, hiu quạnh,
không còn ai khác có thể san sẻ giùm.”
IV.
Ngoài kia lời non nước đang nhắc ta
Trên đây là câu mở đầu một ca khúc Văn Cao viết năm
1945, sau này được Tổng Công Đoàn chọn là bài ca
chính thức của công nhân Việt Nam. Bài này được xếp
vào bộ tứ bình ca khúc: Không quân Việt Nam, Bài
ca chiến sĩ hải quân, Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân
Việt Nam. Tất cả đều được sáng tác ngay sau Cách
mạng Tháng Tám thành công, năm 1945. Ông được suy
tôn làm công nhân danh dự số một của Công ty Tem
Việt Nam.
Từ ngày bị tỵ hiềm và mất chức, cụ thân sinh Văn Cao
phải về mở cửa hàng chữa thuê máy nước hỏng, Văn Cao
bắt đầu lam lũ, nhập vào đám con em thợ thuyền. Mười
lăm tuổi, năm 1938, Văn Cao bỏ học vào làm điện
thoại viên ở Sở Bưu điện ngay gần nhà. Chẳng bao
lâu. chán cảnh làm viên chức quèn tù túng, Văn Cao
rủ bạn bè lập nhóm du ca đi hát lang thang. Bài
Buồn tàn thu, ca khúc đầu tay, mở đầu cho sự
nghiệp âm nhạc của Văn Cao chính là ca khúc được
sáng tác cho nhóm du ca này biểu diễn. Nhóm du ca
lúc lên Hà Nội, lúc về Hải Phòng. Cảnh tình tha
phương của một nghệ sĩ lưu lạc gian truân giúp Văn
Cao tiếp xúc càng gần hơn với khổ nghèo, với cuộc
đời muôn mặt. Nhìn vào đâu cũng thấy thê lương:
Những giỏ cơm lạnh ngắt nắm tro tàn
Xóm rợn mình người nằm đợi sang canh
Có tiếng khóc ở mấy nhà bên cạnh
Cửa ngõ mấy thây người đã lạnh
…
Thân xác xơ đói khổ sống âu sầu
Không đóm lửa chỉ chập chờn trăng chiếu
(Bến Ngự trên Thương cảng)
Về Hà Nội, ông thuê căn gác nhỏ số 171 Mongrant (nay
là 45 Nguyễn Thượng Hiền) nhìn sang phố Khâm Thiên,
một căn gác ọp ẹp:
Nhà
ta thuê mái gục tự mùa thu
Góc cô độc hương về phường Dạ Lạc
(Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, 1945)
Từ góc nhìn này, ông càng cảm thông sâu sắc với
những kỹ nữ bị dày vò như cánh hoa tàn tạ:
Ai
hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ
Thanh xuân hờ thanh xuân
Bước gần ta chút nữa thêm gần
Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút
tuỷ
…
Trên đường tối đêm khoả thân khiêu vũ
Kèn nhịp xa điệu múa vô luân
Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
Kiếp người tang tóc
Loạn lạc đòi nơi xương chất lên xương
(Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc)
Cho đến một đêm quá rùng rợn khi Văn Cao chợt nhìn
vào đêm đen và bắt gặp một chiếc đèn bào leo lét đu
đưa trên chiếc xe ba gác chở xác người chết đói kéo
qua mà tiếng bánh xe xiết xuống lòng đường như nạo
vào xương tuỷ mình:
Bánh
nghiến nhựa đường nghe sào sạo
Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
Trái tim
thấm đẫm nhân văn của người nghệ sĩ lớn bỗng như
quặn thắt, Văn Cao thốt lên vô thức:
Ta
về gác chiếu chăn gào tự tử
Lời thét gào quằn quại bi tráng này về sau đã quật
cường lên thành tuyên ngôn:
Giữa
sự sống và sự chết
Tôi chọn sự sống
Để bảo vệ sự sống
Tôi chọn sự chết
(Chọn, 26.8.1957)
Rồi ông trở về Hải Phòng, quyết tâm trừ khử tên Việt
gian tay sai cho Nhật.
Ông rủ Trần Liễn, một người bạn cùng học tiểu học,
và Trần Khánh – em Trần Liễn, sau này trở thành một
ca sĩ nổi tiếng của Đài Tiếng nói Việt nam – tổ chức
thực hiện nhiệm vụ. Trần Liễn đến trước chọn chỗ nằm
hút ngay sau Đỗ Đức Phin. Dụ Phin hút thật phê, lúc
ấy Văn Cao đột ngột tiến vào, có Trần Khánh hộ vệ.
Trần Liễn đọc nhanh bản tuyên cáo và Văn Cao nổ súng
trúng đầu tên Phin, Văn Cao phóng xe đạp về nhà Doãn
Tòng cải trang rồi trốn biệt. Về Hà Nội ông còn bắn
trượt Cung Đình Vận ở gần rạp hát cuối phố Huế.
Trước vụ ám sát Đỗ Đức Phin người ta còn nghi ngờ
Văn Cao có dính líu đến vụ in và rải truyền đơn dẫn
đến cái chết của một người tên là Nghiêm Xuân Huyễn.
Nghiêm Xuân Huyễn, sước hiệu “Voi đen” nguyên là chủ
hiệu ảnh Aristic ở phố Hàng Đàn. Tuy nhiên bên trong
hiệu ảnh lại là toà soạn và nhà in của tuần báo
“Rạng Đông” và một tờ báo trào phúng lấy tên là “Con
Ong” do Tam Lang Vũ Đình Chí chủ biên. Ngoài việc in
báo, ở đây còn in truyền đơn. Nguyễn Xuân Huyễn do
vậy bị Nhật bắt và “xin âm dương” cho đến chết ở
trong nhà lao. Không biết ngẫu nhiên hay do tâm giao
đồng chí mà Văn Cao đã trở thành con rể của nhà cách
mạng này.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Văn Cao tự mình chỉ huy
đoàn thanh niên xung phong đồng ca bài Tiến quân
Ca của mình.
Năm 1946 Văn Cao được cử cùng Hà Đăng Ấn chuyên chở
vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó chính
thức được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được
bầu là Uỷ viên Chấp hành.
Đầu năm 1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều
tra đặc biệt của công an Liên khu 10 ở biên giới
phía bắc. Tại đây ông được giao nhiệm vụ kết nghĩa
với vua Mèo để lập ra một phòng tuyến bảo mật chống
sự tràn sang của quân Tưởng khi thua trận.
Tháng 3 năm 1948, Văn Cao được kết nạp Đảng Cộng sản
Đông Dương.
Cuối năm 1949, Văn Cao thôi làm báo Văn Nghệ chuyển
sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam.
Văn Cao dấn thân đi làm cách mạng với tâm niệm: “Càng
tới gần cái cuộc sống đầy mâu thuẫn đấu tranh là
càng như đi gần lại một kho thuốc nổ. Có người dao
động và sợ hãi quay lưng lại. Có người vụng về mà
làm nổ. Nhưng cũng có người can đảm biết làm nổ để
mở đường.” (Mấy ý nghĩ về thơ). Từ đây, lời ông
đã từng như hồi kèn thúc quân giục giã: … nước
non đang chờ mong tay ngươi, hồn sông núi khí thiêng
ghi muôn đời (Chiến sĩ Việt Nam).
V.
Nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà thơ. Tất cả đều tài danh
Với những Suối mơ, Thiên Thai, Tiến quân Ca, Bắc
Sơn, Trường ca Sông Lô…, người ta thường nhớ đến
Văn Cao như một nhạc sĩ tài ba. Thực ra, ông được
học có lớp lang hơn, không phải về âm nhạc, mà là
hội hoạ. Ông đã theo học hai năm ở trường Mỹ thuật
Hà Nội, song, theo các hoạ sĩ cùng lứa như Lương
Xuân Nhị, Tô Ngọc Vân, Tạ Tỵ, Nguyễn Đỗ Cung thì tuy
Văn Cao chỉ học với tư cách thính giả tự do nhưng
cũng đã tỏ ra một tài hoa kỳ lạ, khó tả trong môn
phái lập thể. Văn Cao từng có những thành công không
kém gì âm nhạc từ rất sớm. Tại triển lãm Salon
Unique năm 1943 ở Nhà Khai trí Tiến Đức, ba bức
tranh sơn dầu của Văn Cao đã từng được treo ở chỗ
tốt nhất của phòng tranh và được các báo khen ngợi.
Đặc biệt là bức tranh Le Bal aux suicidés (Cuộc
khiêu vũ của những người tự tử). Ngoài ra còn có
bột mầu Thái Hà ấp đêm mưa (1943), mầu dầu
Sám hối nửa đêm (1944), mầu dầu Phố Nguyễn Du
(1945), mầu dầu Lớn lên trong kháng chiến
(1952)… Nhiều và nổi tiếng hơn là minh hoạ trên báo
và bìa sách. Tranh minh hoạ của Văn Cao thường rất
phóng khoáng với những nét đen dẹt, khoẻ. Ngựa và
thiếu nữ trong các minh hoạ ấy rất độc đáo, trẻ
trung, phảng phất chất sang trọng, quý phái. Những
đường kỷ hà trong tranh Văn Cao hao hao như Kadinsky.
Ông thường vẽ nhanh và nét bút vung mạnh, rất thần,
rất thiền. Người ta cho rằng cái nhìn hội hoạ của
Văn Cao có địa vị dẫn đường và chi phối. Những đề
xuất của ông về một ngữ pháp mới cho đồ hoạ đến nay
vẫn có khả năng khai thác và biến thể thành một thế
hệ ngôn ngữ hội hoạ nữa. Tài năng hội hoạ của Văn
Cao còn là một bí ẩn, chưa được khai thác, bộc lộ,
và cũng chưa được làm sáng tỏ. Nói như nhà nghiên
cứu Thái Bá Tân: “Nếu âm nhạc và thơ là một bản thể
tươi tốt của anh, thì hội hoạ là một tri thức sâu
sắc. Cách nhìn thế giới của anh nghiêng về hội hoạ.
Là bởi phép viễn cận của các thời đại hội hoạ, là
tiềm thức sâu kín của phối cảnh xã hội, nơi Văn Cao
tỏ ra những nhạy bén về xúc cảm, và tinh tường trong
quan sát.” (Văn Cao - người đi tìm cái đẹp).
Trong một Triến lãm Hội hoạ ở Liên khu Ba, Văn Cao
gửi tham gia một bức sơn dầu mang tựa đề Cây đàn
đỏ vẽ một người bộ đội ôm “Cây đàn chủ nghĩa”.
Sau này Văn Cao còn treo một bức sơn dầu lập thể
khác vẽ một cậu bé thổi sáo bằng hai cái mồm. Một
cái được vẽ từ cách nhìn thẳng. Một cái được vẽ bằng
cách nhìn nghiêng. Làm nền, phía sau cậu bé là đông
nghịt những con người trong một tiết tấu đầy chuyển
động của nhịp chiến tranh. Hai bức sơn dầu lập thể
này đã gieo hoạ cho Văn Cao. Ông bị quy kết: hình
thức lai căng, nội dung thì có vấn đề về tư tưởng!
Văn Cao nhiều lần tự định trước bạn bè: “Mình
chưa bao giờ là nhạc sĩ cả”, nhưng, ngoài những
ca khúc rất nổi tiếng, chỉ bằng tự học một cách hết
sức kiên nhẫn, ông đã tiến tới viết cả nhạc không
lời. Ông đã hoàn thành bản giao hưởng thính phòng
Anh bộ đội Cụ Hồ ngay trước ngày giải phóng Miền
Nam và một số tác phẩm khí nhạc cho piano như
Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa.
Ông viết nhạc cho cuốn phim Đi bước nữa,
phim Chị Dậu, phim Lửa rừng và vở kịch
Vào tuyến của Tất Đạt. Nét độc đáo là ở vở
kịch này, ông cho 4 cây ghi-ta chơi từ đầu đến cuối.
Ngoài Vào tuyến ông còn soạn nhạc cho các vở:
Gió xoay chiều, Ta-nhi-a, Lịch sử
và nhân chứng, Chỗ đứng…; cho vở cải
lương Những người quyết tử do đoàn Kim Phụng
dàn dựng. Song, không thể không nói đến vở kịch đầu
tiên Văn Cao viết nhạc là vở Bắc Sơn của
Nguyễn Huy Tưởng. Bài hát Bắc Sơn với ca từ bi tráng:
Khi nhìn châu xưa bóng cờ mấy ánh sao vàng. Đồn
cao vách đá nép mây huy hoàng không chỉ rền vang
khắp miền rừng núi ngàn tiếng hú căm hờn suốt
những năm dài kháng chiến mà còn được hát vang nhiều
lần trong các đêm biểu diễn vở kịch này ở Nhà Hát
Lớn thủ đô. Nguyễn Huy Tưởng sau đó nhiều lần đã bàn
định với Văn Cao làm nhạc cho vở Vũ Như Tô
của mình. Tiếc thay, chưa kịp xúc tiến thì Nguyễn
Huy Tưởng đã mất sớm - ngày 25 tháng 7 năm 1960.
Nhà hát Cải lương Việt Nam thì coi Văn Cao là người
góp công lớn sáng lập ra mình vì ông đã có công giữ
được bà Dịu Hương, ông Năm Ngũ… trong một tổ chèo
hồi còn ở chiến khu.
Năm 1959, chuyển về công tác ở Ban Nghiên cứu Âm
nhạc thuộc Bộ Văn hoá, ông đã biên soạn công trình
nghiên cứu Điệu thức năm cung trong dân ca đồng
bằng và trung du Băc Bộ. Ở đây ông đã có một
đóng góp quan trọng qua luận điểm: Điệu thức Do Re
Fa Sol La là điệu thức gốc trong dân ca đồng bằng và
trung du Bắc Bộ. Ở đó, âm quãng bốn của điệu thức (tức
âm Fa) đóng vai trò chủ âm nằm ở bụng điệu thức.
Thơ Văn Cao cũng có vị trí nhất định trong thi đàn
Việt Nam.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết: “Những bài thơ của
ông khiến chúng tôi nổi da gà, kinh ngạc vì thán
phục. Thơ ông đẹp một cách quyết liệt. Thơ ông thật
đến siêu thực. Thơ ông mới, bất ngờ như mầm cây vừa
đội đất trồi lên.”
Nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha: “Thơ anh không ồn ào. Chỉ
những người mặc cảm về sự tẻ nhạt của mình mới ồn ào.
Thơ Văn Cao là những khoảnh khắc lắng xuống dưới
tiếng động. Người hời hợt, ham sự kiện có lẽ không
hợp với thơ anh. Không bày tiệc mời, thơ anh là
những viên tăng lực cho con người giữa đời sống cần
lao, nhọc nhằn. Nó trụi trần nhưng không thô thiển.
Nó đẹp nhưng không diêm dúa. Nó lắng buồn nhưng
không chán nản. Thi pháp Văn Cao thật khó bắt chước
nhưng tạo được ảnh hưởng mạnh tới thế hệ trẻ.”
Nhà thơ Thanh Thảo: “Cái nhìn của Văn Cao trong thơ,
nhiều lúc, là cái nhìn của một hoạ sĩ, nó bắt được
cái thần của đối tượng chỉ qua vài nét phác. Sự giản
lược tối đa, những khoảng trống, những khoảng lặng,
tự làm khô lại như một củ huệ, lan chờ lúc bật mầm.
Thơ Văn Cao gợi nhớ đến J. Ritsos hay thơ N. Hikmet.
Đó là thơ của những người chỉ có một khoảng không
gian hẹp trong đời sống, những người phải dè xẻn
lương thực, những cây xanh phải tận dụng đến từng
chiếc lá của mình để phát điện.”
Nhà thơ Hoàng Cầm: “Đêm ấy tôi đọc hết bài thơ dài
Những người trên cửa biển. Có những câu đầy
khí thế, rất Văn Cao, ứ đọng những tư tưởng mới,
những cách nhìn mới về xã hội, về con người, về
thành phố cảng.”
Giáo sư Hoàng Như Mai thì khái luận: “Văn Cao không
nói nhân văn hiền từ như lời thuyết pháp của nhà
truyền đạo hay ôn hoà như lời giảng bài của giáo sư.
Anh nói nhân văn và nói mãnh liệt, quyết liệt, tính
cách của tác giả Tiến quân Ca.”
Về văn, Văn Cao có đăng một vài truyện ngắn. Trước
Cách mạng ông có một phóng sự tả về đời sống công
nhân các nhà máy ở Hải Phòng nhưng tờ Tiểu thuyết
Thứ Bẩy không đăng có lẽ vì tính chất tố cáo quá
mạnh của bài báo. Năm 1948, Văn Cao có viết một vở
kịch mang tên Cái hầm sống.
Ngoài thiên chức một nghệ sĩ lớn, Văn Cao còn là một
nhà tư tưởng rất có tư chất khoa học. Đây là tuyên
ngôn cổ suý mạnh mẽ tư duy sáng tạo đối với con
người của ông: “Người ta yêu những người cố mở
đường mà thất bại, yêu những người biết thất bại mà
dám mở đường… Hôm nay, con đường lớn nhất của chúng
ta là mở cho tất cả những giấc mơ, những khát vọng
thuộc về sự sáng tạo của con người tự do phát triển
bay đi xe mật về ổ. Mở cho những giấc mơ, những khát
vọng tự do phát triển bao nhiêu là tập trung tất cả
giấc mơ và khát vọng của con người làm thành mũi
nhọn kéo lê đi phía sau cái thực tế chậm chạp ”
(Mấy ý nghĩ về thơ).
VI.
Này khúc Bồng Lai… và
Sông mênh mông như bát
ngát hát…
Trịnh Công Sơn - nhạc sĩ
thiên tài, người vừa
được nhận “Giải thưởng
Âm nhạc Hoà bình Thế
giới”, một Nobel về âm
nhạc, mang tên “Trọn đời
vì hoà bình” – đã nói về
âm nhạc của Văn Cao như
sau: “Trong âm nhạc, Văn
Cao sang trọng như một
ông hoàng. Trên cánh
đồng ca khúc, tôi như
một đứa bé ước mơ mặt
trời là con diều giấy
thả chơi. Âm nhạc của
anh Văn là âm nhạc của
thần tiên bay bổng. Tôi
la đà đi giữa cõi con
người. Anh cứ bay và tôi
cứ chìm khuất. Bay và
chìm trong những thân
phận riêng tư”.
Những trí thức, những
thanh niên sục sôi tinh
thần cách mạng trước
1945 đã từng cuồng nộ
với Hò kéo gỗ Bạch
Đằng Giang (1941),
Gò Đống Đa
(1942), Thăng Long
hành khúc (1943)…
qua những ca từ hùng
dũng: Cố bước bước
trên đường thơm gió mát.
Ta đi đi đi đi thăm gò
xưa chất thây. Đống Đa
còn chốn đây…, những
Ơi Thăng Long! Ơi
Thăng Long! Ơi Thăng
Long ngày mai. Xây đắp
dưới vinh quang bằng chí
khí anh hùng…
Các thế hệ học sinh sau
Cách mạng Tháng Tám có
lẽ không ai không thuộc
bài Làng tôi.
Ngày 10 tháng 2 năm
1993, sau buổi gặp giữa
ông và một số trí thức
Việt Nam với tổng thống
F. Mitterand, hai câu:
Ngày giặc Pháp đốt
làng triệt thôn và
Ngày khi quân Pháp
qua đã được đề nghị
đổi thành: Ngày giặc
ác đốt làng triệt thôn,
và Ngày khi quân ác
qua.
Cái tâm trạng khổ đau
của người dân mất nước:
Sao đàn u hoài gì
mùa thu?
Sao đàn u hoài gì
mùa thu?
Tri âm nghe thử dây
đồng vọng
Lạc lõng đêm vàng
khi nhạc ru
(Một đêm đàn lạnh
trên sông Huế)
cái khắc khoải mông lung
của một trí thức trẻ
muốn tìm đường:
Sương
buông chừng núi vấn
vương
Tiếng chim lạ cất
tiêu thương buồn
trời
Cái gì cũng thấy
chơi vơi…
(Đêm ngàn,
22.11.1941)
có lúc đã đưa Văn Cao,
cũng như nhiều trí thức
đương thời, tìm đến
thoát tục. Ông tìm lại
Trương Chi để được sống
với Một chiều xưa
trăng nước chưa thành
thơ. Trầm trầm không
gian mới rung thành tơ.
Vương vất heo may hoa
yến mong chờ. Ôi tiếng
cầm ca thu tới bao giờ
(Trương Chi – 1942 ).
Ông đến Bến Xuân
(một trong mấy ca khúc
viết chung với Phạm
Duy), bước đi run rẩy:
…Tới
đây, chân bước còn
ngập ngừng
Mắt em như dáng
thuyền soi nước
…Tới đây, mây núi
đồi chập chùng
Liễu dương hơ tóc
vàng trong nắng
Ông thả lòng trong
Chiều buồn trên sông
Bạch Đằng:
Chiều dần rơi sương
buông non ngàn xa
trầm ngâm trên sông
vắng
Bạch Đằng Giang sầu
mơ bên lau xanh với
bến nước xa xôi
Thuyền ai kia trôi
theo dòng sông xanh
không vang một tiếng
người
Buồn ai đứng nhìn
con sông xanh biếc
ngày xưa mà nước mắt
mờ rơi
Ông cứ thế, lang thang
buồn rồi lạc vào
Thiên Thai khi 18
tuổi. Song, nỗi buồn ông
cao quý quá, đẹp quá. Nó
vút lên thành: Tiếng
ai hát chiều nay vang
lừng trên sóng…
Để ca ngợi Thiên Thai
một cách muộn mằn, khiên
cưỡng, Trần Bạch Đằng,
cho đến năm 1986, mà còn
viết: “…nếu hiện nay,
Văn Cao vừa sáng tác
xong bài Thiên Thai
thì… đè anh xuống mà
nện. Còn nửa thế kỷ
trước, đó là chuyện khác
”.
Tôi thấy khó mà đồng ý
được với ông Trần Bạch
Đằng. Thiên Thai
lúc nào cũng là Thiên
Thai. Cái chốn tràn
trề những nguồn hương
duyên theo gió tiếng đàn
xao xuyến, cái chốn
Có một mùa đào dòng
ngày tháng chưa tàn qua
một lần kia luôn
luôn là niềm mộng tưởng
trong sáng; là mục tiêu
tột cùng của cách mạng.
Tôi ước sao thanh niên
ngày nay biết mê
Thiên Thai để bớt
sài hồng phiến, rủ nhau
lao vào nhẩy xếch thác
loạn; bớt lôi kéo nhau
vật lộn điên cuồng làm
giầu bằng mọi giá; và
tán tụng hết lối ẩm thực
phương Đông đến lối ẩm
thực phương Tây.
Hát Thiên Thai,
tôi nghĩ, sẽ cũng là một
cách thiền để người ta
vượt được lên trên những
dục vọng vật chất tầm
thường.
Vả chăng, dù có lạc vào
Đào Nguyên thì Văn Cao
vẫn tỉnh táo nhìn thấy
Ánh trăng xanh mơ tan
thành suối trần gian;
vẫn ngậm ngùi cùng bầy
Tiên: Nhớ quê chiều
nào xa khơi. Chắc không
đường về Tiên nữ ơi
kia mà. Nó cũng giông
như Tản Đà: “Nửa năm
Tiên cảnh. Một bước trần
ai. Ước cũ, duyên thừa
có thế thôi!”
Giai điệu Thiên Thai
biến hoá diệu kỳ, khiến
người nghe thấy “Khi cao
vút tận mây mờ. Khi gần
vắt vẻo bên bờ cây
xanh”. Ngân lên câu hát
Gió hát trầm tiếng
ca. Tiếng phách ròn lắng
xa hay Này khúc
Bồng Lai, là cả một
thiên thu trong tiếng
đàn chơi vơi… người
ta tưởng như đang được
tấu lên những tiết điệu
réo rắt của ca trù tuyệt
diệu.
Tuy nhiên có nhạc sĩ lại
liên tưởng Thiên Thai
với nhạc phẩm trữ tình
nổi tiếng cuả nhạc sĩ
Pháp hiện đại Debussy và
cho rằng, trước Văn Cao,
những tác giả ca khúc
Việt Nam khác, chưa ai
tổ chức ca khúc trên một
hình thức mở rộng như
thế và mang chứa một nội
dung phóng khoáng như
thế.
Thiên Thai được
biểu diễn lần đầu tại
Nhà Hát Lớn Thủ đô do
tốp ca nữ trường Đồng
Khánh (Trường Trưng
Vương ngày nay), có phần
múa phụ hoạ do nhạc sĩ
Văn Chung biên đạo và
dàn dựng. Nhờ bản dịch
tiếng Anh của Xuân Oanh,
bài hát được lan truyền
đến nhiều nơi trên thế
giới và là bài hát Việt
Nam đầu tiên được người
Mỹ hát từ giữa thế kỷ
trước. Thiên Thai
cũng được chọn đưa vào
băng nhạc để các phi
hành gia Mỹ đem vào vũ
trụ trên tầu Apollo.
Ảo huyền với Thiên
Thai nao nao bầu
sương khói phủ quanh
trời, nghiêng tai
vào Bờ xanh ngắt bóng
đôi cây thuỳ dương
để nghe cho dược con
suối mơ hát theo đôi
chim quyên, bỗng một
ngày Văn Cao ào ạt, tràn
trề với Sông Lô đang
xuôi mau. Tin về đồng
lúa reo mừng..
Xướng lên ngổn ngang
những sóng ngàn Việt
Bắc, bãi dài ngô
lau, núi rừng âm
u trong câu nhạc mở
đầu điệp trùng như không
dứt: Sông Lô sóng
ngàn Việt Bắc, bãi dài
ngô lau, núi rừng âm u
rồi hoạ lại mênh
mang một Thu ru bến
nắng vàng từng nhà mờ
biếc chìm một mầu khói
thu để rồi ngay sau
đó cao độ âm thanh được
nâng lên 3 giọng và giữ
nguyên qua 4 nốt nhạc
như để cất lên dõng dạc
lời tuyên cáo: Sông
Lô, sóng ngàn kháng
chiến cháy bờ lau thưa
đã tàn thôn trang;
trường ca Sông Lô như
một bài hịch, như một
cuốn phim, như một bức
tranh liên hoàn, như một
cuốn truyện nhiều tình
tiết hấp dẫn với những:
mùa thu tới nước băng
qua ngàn nước in ven bờ
xanh ôm bóng tre, Phan
Lương vui bóng thuyền.
Lều dựng lên ven sông,
bóng người sầm uất bến
Then. Bên sông Lô đắp
nhà. Bao dân trong khu
Mười, mơ thành người
sông Lô; với cảnh
hoang tàn: Về trong
đêm gió rét. Từng sân
bao bóng người quanh lửa
hồng. Nền khô trơ than
xám. Đêm chìm đợi ánh
chiêu dương. Câu
nhạc lúc ở trên nguồn
cao, lúc lênh láng tràn
ra đến biển: Dòng
sông Lô trôi. Dòng sông
Lô trôi ; lúc dồn
dập hành quân chiến đấu
hay hăng say lao động:
Vui hát ca hoà, vui
hát ca hoà dân buông
lưới… Vui hát ca hoà,
vui hát ca hoà chí chiến
đấu; lúc nhởn nhơ
thư thái: Đời vui vút
lên. Đời vui sướng về…
Ở Việt Nam chắc chắn
chưa có bài hát nào về
một con sông hay đến
thế, hào hùng đến thế.
So với thế giới hình như
cũng vậy. Bài Dòng
Danube xanh chỉ tả
được cảnh thiên nhiên, ở
Sông Lô có cả
cảnh chiến đấu và chiến
thắng.
VII.
Bản Quốc ca bất hủ
Vào những năm trước Tổng
khởi nghĩa, ở chiến khu
chưa có bài hát mới nên
các chiến sĩ cách mạng
thường phải hát những
bài hát của hướng đạo.
Theo Văn Cao kể, ông
viết Tiến quân Ca
là theo “đơn đặt hàng ”
của một cán bộ bí mật
tên là Vũ Quý, để kịp có
một ca khúc cách mạng
cho khoá quân chính
kháng Nhật đầu tiên sắp
mở. Vũ Quý vốn đã theo
dõi những hoạt động nghệ
thuật của Văn Cao từ ít
năm trước và đã từng
khuyến khích Văn Cao
sáng tác những bài hát
yêu nước như: Đống
Đa, Thăng Long hành
khúc, Tiếng rừng… Vũ
Quý còn là người đầu
tiên trực tiếp đưa Văn
Cao vào đội ngũ cách
mạng.
Tháng 10-1944, Tiến
quân Ca được viết
xong tại số nhà 45
Nguyễn Thượng Hiền - Hà
Nội. Tháng 11-1944, Văn
Cao tự tay viết lên đá
để in litô bản Tiến
quân Ca trong trang
Văn Nghệ đầu tiên của
báo Độc Lập. Quốc hội
nhất trí xét chọn và
ngày 13-8-1945, Tiến
quân Ca được chính
thức công bố là Quốc ca
của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà.
Vậy là, ngẫu nhiên mà
trùng hợp. Cả Rouget de
Lisle ở Pháp khi viết
Marseillaise cũng như
Văn Cao ở Việt Nam khi
viết Tiến quân Ca
đều không hề nghĩ rằng
mình đang viết Quốc ca.
Có điều Rouget de Lisle
chỉ là một đại uý công
binh chứ không trở thành
một nhạc sĩ lừng danh
như Văn Cao.
Thật ra cái hào khí bừng
bừng trong Tiến quân
Ca đã được phát khởi
từ Gò Đống Đa
(1942): “Lời đoàn
quân trước trong gió
rung bao cờ bay. Còn rền
theo trống chiêng lắng
khua trong chiều nay.
Hỡi dũng sĩ ái quốc ngại
gì bao nguy khó. Giữ đất
nước thống nhất bao
người đang ngóng ta.
Tiến quân hành khúc ca.
Thét vang rừng núi xa
”; từ Thăng Long hành
khúc (1943): “Nhị
Hà còn kia. Nhị Hà còn
đó. Lũ quân chàng Tôn
sập cầu trôi đầy sông.
Tháp đây, gươm thần đâu
dưới nước biếc… Xây đắp
dưới vinh quang bằng chí
khí anh hùng…”. Cái
khí thế bừng bừng đó
càng bột khởi mạnh mẽ
trong năm 1945. Chỉ
riêng trong một năm Tổng
khởi nghĩa này Văn Cao
có hàng loạt hành khúc
chiến đấu: Không quân
Việt Nam, Bài ca chiến
sĩ hải quân, Chiến sĩ
Việt Nam, Bắc Sơn, Công
nhân Việt Nam. Cái
hùng khí cách mạng rầt
mạnh mẽ, rất quyết liệt
nhưng cũng rất lãng mạn
trong những hành khúc
này còn thôi thúc mãi
trong tâm tưởng thế hệ
chúng tôi và âm vang của
nó hẳn sẽ còn làm khoẻ
mạnh tinh thần nhiều thế
hệ sau nữa.
Thế mà! Không biết do
không ưa tác giả hay do
không đủ tâm, đủ trí
chiêm nghiệm nổi cái giá
trị lịch sử, cái hồn
thiêng khí phách của bài
Tiến quân Ca bất
hủ mà bỗng dưng người ta
ra Nghị quyết và ầm ầm
tổ chức thi sáng tác
quốc ca để thay thế.
Trong cuộc vận động sáng
tác rầm rộ này người ta
đã chọn ra 17 bài trong
vòng sơ khảo. Tất cả đều
được ấn hành với số
lượng lớn và Đài Phát
thanh đã phát oang oang
trên cả nước suốt một
thời gian dài.
Phấn khích bởi sự khích
lệ rộn rã của hệ thống
tuyên truyền, người viết
bài này cũng đã từng hồ
hởi tham gia. Bài “quốc
ca” của kẻ ngạo mạn này
không được chọn vào vòng
nào cả. Có chăng chỉ
được vài anh chị em tập
và hát nghêu ngao trong
cơ quan. Bây giờ nghĩ
lại thấy xấu hổ quá!
Trộm nghĩ, nếu không
muốn dùng Tiến quân
Ca nữa thì còn một
bài ca khác cũng rất
xứng đáng sử dụng làm
Quốc ca. Nhưng, bài đó
cũng chính là của… Văn
Cao, bài Chiến sĩ
Việt Nam. Ở bài
Chiến sĩ Việt Nam,
có một đoạn mà tôi thấy
còn thích hơn cả Tiến
quân Ca: “Thề
phục quốc. Tiến lên Việt
Nam! Lập quyền dân Tiến
lên Việt Nam! Đài hạnh
phúc đắp xây tự do. Việt
Nam tranh đấu chống quân
ngoại xâm”.
Như là “đồng khí tương
cầu”, nhà thơ Phùng Quán
cũng đã từng hết lời
biểu dương bài Chiến
sĩ Việt Nam. Tôi xin
được chép lại nguyên văn
một bài thơ Phùng Quán
nói về Văn Cao, về bài
hát này:
Giữa chiến khu võ
vàng đói khát
Cả tiểu đội tôi chỉ
còn mắt với răng
Như một đồng ca
chúng tôi lên cơn
sốt rét
Lên cơn sốt rét,
Chúa Trời cũng phải
rên
Chúng tôi hát:
Bao chiến sĩ anh
hùng!…
Có một điều anh
không bao giờ ngờ
được
Chúng tôi đã cải
biên khúc quân hành
bão táp của anh
Thành nhạc không lời
Thành một điệu rên…
Cả tiểu đội tôi chỉ
một mình tôi còn
sống
Những người đã rên
theo điệu quân hành
của anh
Đã ngã xuống
Như những anh hùng
Trong những bài ca
bất tử của anh!…
Những năm tháng
trường chinh
Nằm gai nếm mật
Chúng tôi thường mơ
đến Anh
Như trẻ nhỏ mơ những
anh hùng truyền
thuyết
Chúng tôi thường mơ…
Một hôm nào đó
Nhạc sĩ Văn Cao bị
bốn bề súng giặc
Chúng tôi sẽ xông ra
lấy ngực che đạn cho
anh!
Chúng tôi thường mơ…
Trên chiến trường
quê hương Trị Thiên
Chúng tôi sẽ đánh
một trận lừng danh
đất nước
Trên sông Hương,
sông Thạch Hãn, sông
Bồ…
Để anh về anh viết
trường ca
Như trường ca Sông
Lô…
Anh Văn Cao
Cuộc đời tôi quá
hiếm hoi niềm vui
Hiếm hoi hạnh phúc
Niềm vui lớn nhất
Hạnh phúc lớn nhất
Đời tôi
Là dược gặp Anh!
Được thay mặt những
người đồng đội đã
khuất
Nói với anh một lời
gan ruột:
Tình chúng tôi yêu
anh
Chép nguyên xi một bài
thơ dài của tác giả khác
vào bài viết của mình có
thể xem là một sự lạm
dụng. Nhưng, tôi thấy
bài thơ hay quá, chỉ
riêng nó đã nói được hơn
nhiều lần về Văn Cao so
với bài viết lê thê này.
Cho nên tôi vẫn cứ xin
chép để sự suy tôn Văn
Cao càng được nhân lên.
VIII.
Những dự báo đã thành
hiện thực
Tưởng cũng nên hơn một
lần nhắc lại rằng Văn
Cao không chỉ là một
nghệ sĩ tài ba mà còn là
một nhà khoa học. Ông
luôn cổ vũ, biểu dương
cái mới. Ông có tư duy
khoa học và diễn giải
cũng rất khoa học:
“Cái mới đâu phải là
những cái không sẵn có.
Sự làm mới những cái sẵn
có cũng là một phương
pháp sáng tạo”, “…Một
trong những hướng xây
dựng nhân vật là đào tạo
cho xã hội những người
biết khai thác, khám
phá, phân tích thực tế
và mở đường cho tương
lai” (Mấy ý nghĩ về
thơ).
Ông có nhãn quan vượt
thời đại, có tầm dự báo
chính xác đến ngạc
nhiên.
Cách mạng Tháng Tám vừa
thành công, ông đã dự
báo ngay về những binh
chủng hiện đại sẽ có
trong lực lượng vũ trang
của ta qua Bài ca
chiến sĩ hải quân, Không
quân Việt Nam. Còn ở
chiến khu chống Pháp với
những nhóm quân so với
quân đội Pháp chỉ như
“châu chấu đá voi” mà
ông đã hình dung cái
buổi tiến về Hà Nội rõ
rệt như đang diễn ra
trước mắt: “Năm cửa ô
đón mừng đoàn quân tiến
về. Như đài hoa đón mừng
nở năm cánh đào chảy
dòng sương sớm long
lanh… Khi đoàn quân tiến
về là đêm tan dần. Như
mùa xuân xuống cành,
đường nghe gió về, Hà
Nội bừng Tiến quân Ca
” (Tiến về Hà Nội –
1949). Hát bài hát lên,
người hát ngày ấy, khi
chưa được trở về Hà Nội,
hay bây giờ đều như thấy
mình đang thật sung
sướng đứng giữa rừng cờ
hoa ngày Thủ đô giải
phóng.
Điều kỳ lạ hơn là ông
không chỉ dự báo lạc
quan mà còn cảnh báo
được những ẩn hoạ đằng
sau tấm huân chương. Ông
nói như Kinh Dịch:
Những bó hoa mang
tới
chúc tụng
Thành công một con
người
Hàng ngày hàng ngày
Xây thành cái mồ
chôn
Con người thành công
ấy
Đôi khi người ta bị
giết
bằng những bó hoa
(Những bó hoa,
17.3.1974)
Điều cảnh báo này không
ngờ nghiệm rất đúng ngay
cả cho ông Tổng Bí thư
Đảng nước ta sau chiến
thắng 1975!
Ông nói vừa như về khoa
học tự nhiên, vừa như
giảng giải triết học:
Tin tất cả và hoài
nghi tất cả
Chúng ta là những kẻ
chài quen biển
Thấy ngọn lửa quay
đầu
Biết bão táp đang
trở mình trên mặt
sóng
(Những ngày báo hiệu
mùa xuân)
Thì ngọn lửa quả đã quay
đầu rồi. Quay về kinh tế
thị trường, về tư bản
hoang dã; chỉ còn cái
khẩu hiệu dối lòng được
giương lên thật cao:
Định hướng xã hội chủ
nghiã!
Sau cái chết khó hiểu
của Vũ Quý, ông giật
mình nhận ra trong cuộc
đời, và ngay trong Đảng
của ông:
Tôi đã nhìn thấy
chung quanh tất cả
Những con người và
con vật
Dũng cảm và hèn nhát
Cao quý và ty tiện
Trung thực và bất
lương
(Trong mùa xuân đời
tôi)
Ông thảng
thốt tố cáo:
Trong những ngày khó
khăn chồng chất
Kẻ thù của chúng ta
xuất hiện
Những con rồng đất
khi đỏ, khi xanh
Lẫn trong hàng ngũ
Những con bói cá
Đậu trên những dây
buồm
Đang đo mực nước
Những con bạch tuộc
Bao tay chân cố dìm
một con người
Đất nước đang lên da
lên thịt
Đất nước còn đang
nhỏ máu ngày ngày
Ta muốn gói cuộc đời
gọn gàng như trái
vải
Đã thấy loài sâu nằm
tròn trong cuống
Chúng muốn các em
nhỏ mới biết đi phải
rụng
Mòn mỏi dần sức vỡ
đất khai hoang
Làm rỗng những con
người lụi dần niềm
hy vọng
Héo dần mầm sáng tạo
mất phẩm giá con
người
Chúng nó ở bên ta
trong ta lén lút
Đào rỗng từng kho
tiền gạo thuốc men
Tôi đã thấy từng mặt
từng tên xâu chuỗi
Tôi sẽ vạch từng tên
từng mặt
Hãy dừng lại
Những tên muốn ôm
cây mùa xuân không
cho mọc
Những tên muốn cây
to che cớm mầm non
(Những người trên
cửa biển)
Những kẻ Đào rỗng
từng kho tiền gạo thuốc
men như Trần Dụ Châu
ngày ấy, nay nhung nhúc
trong Đảng, trong xã hội
ai cũng thấy; nhưng còn
Những con rồng đất
khi đỏ khi xanh, khi
ngả theo Liên Xô, khi sà
vào lòng Trung Quốc; gõ
mõ thật to để tụng niệm
“Tư tưởng Hồ Chí Minh”
mà thực tế ngược lại Hồ
Chí Minh; thậm chí đã
từng tổ chức hãm hại
Người; Những tên muốn
ôm cây mùa xuân không
cho mọc. Những tên muốn
cây to che cớm mầm non.
Làm rỗng những con
người lụi dần niềm hy
vọng. Héo dần mầm sáng
tạo mất phẩm giá con
người thì đâu có dễ
vạch mặt chỉ tên, vì
chúng là Những con
bói cá. Đậu (tít)
trên những dây buồm.
Chúng là bọn hãnh tiến,
là những tên cơ hội nguy
hiểm nhưng lại đủ quyền
đủ thế để lu loa người
chân chính là cơ hội.
Đối với đất nước, với
dân tộc, chúng là thế
lực phản động nhưng lại
oang oang vu khống những
người nghĩa khí là phản
quốc, phản Đảng, thậm
chí là gián điệp!
Có lúc Văn Cao đã dám
rụt rè vạch mặt một
trong những tên đầu xỏ
bậc thầy đó:
Tôi đã gặp lại anh
Im lìm như một bức
ảnh
Người anh dẹt như
một con dao
Gây nhiều vết thương
cho bạn hữu
Anh mang trong tôi
nhiều bộ mặt
Đâu là cái cuối cùng
Chỉ còn hai con mắt
Trắng dã không thể
dối lừa
(Về một người, 1960)
Nhìn vào bức chân dung
ai cũng nhận ra được một
nhân vật tác oai tác
quái một thời, nhưng
không ai dám nói thẳng
tên ông ta. Ông ta đã
từng hãm hại rất nhiều
hiền tài, kể cả những
công thần đại danh của
cách mạng, đến như tướng
Võ Nguyên Giáp.
Nhưng rồi, chắc chắn
lịch sử sẽ phán xử công
minh.
Thật chua xót khi cho
đến ngày nay, nhìn lên,
ta chỉ thấy:
Còn lại những đám
khói đen
Đọng giữa trời sương
sớm
(Ai biết Hải Phòng
là đâu)
Cho đến ngày nay dân tộc
ta vẫn phải
Đêm đêm cầu nguyện
bên đèn
Chưa thấy ngày mai
hửng sáng
Chỉ thấy những xác
thiêu thân
Chết trên mặt bìa
những cuốn sách kinh
Những pho tượng
không bao giờ nói
Hai con mắt nhìn an
ủi
Ngón tay không chỉ
rõ đường
(Tình yêu và khát
vọng, 1956)
Đánh giá về Văn Cao viễn
kiến, tôi thật tâm đắc
với Nguyễn Thuỵ Kha khi
ông viết:
“Tôi nhớ câu thơ của nhà
thơ Liên Xô Andrei
Voznesensky: “Không thể
chịu được khi không có
tài năng – nhưng khi có
tài năng lại cũng không
chịu được”. Thật không
muốn nhắc lại những gì
đã qua, nhưng trong ngót
nửa thế kỷ này ta không
thật sự nuôi dưỡng những
tài năng lớn. Tầm nhìn
thiển cận đã tự làm
nghèo mình đi bao nhiêu.
Cũng là tài năng thơ
nhưng có người suốt một
thời chỉ nhằm tạo ra
hiệu quả trước mắt cho
cách mạng. Hành động
đáng quý đó xẩy ra với
Maiacovski ở Liên Xô,
với cụ Pham Bội Châu,
Phan Chu Trinh ở Việt
Nam. Nhưng không tạo ra
hiệu quả kịp thời không
có nghĩa là chống lại
cách mạng, mà chính họ -
những nghệ sĩ ấy muốn
đem lại cho cách mạng
những giá trị đích thực
và dài lâu. Hành động đó
cũng đáng quý như hành
động kể trên. Không so
sánh tài năng, chỉ đồng
nhất hiện tượng, có thể
kể ra ở Liên Xô cũ là
Boris Pasternak, còn ở
Việt Nam là Văn Cao và
một số tài năng cùng thế
hệ anh”.
IX.
“Có lúc nước mắt không
thể chảy ra ngoài được”
Sau suốt một đời hô hào
dắt giống nòi quê
hương qua nơi lầm than.
Cùng chung sức phấn đấu
xây đời mới và bản
thân đã từng xả thân
chiến đấu cho độc lập
dân tộc, cho cái chân,
cái thiện, cái mỹ, Văn
Cao đã từng có thời khắc
được ngợi lên khúc khải
hoàn ca:
Từ đây người biết
quê người
Từ đây người biết
thương người
Từ đây người biết
yêu người
(Mùa xuân đầu tiên)
Tuy vậy, trên kia vẫn là
tiếng kêu buồn của ông
gửi trần thế mà tất cả
những lương tri còn lại
trên đời không thể không
xót xa, trăn trở:
Có lúc
một mình một dao
giữa rừng đêm không
sợ hổ
có lúc
ban ngày nghe lá
rụng sao hoảng hốt
có lúc
nước mắt không thể
chảy ra ngoài được
(Có lúc, 1.1963)
Suốt gần hai chục năm
trời, ngoại trừ quốc ca,
hầu như các bài hát của
Văn Cao không còn được
hát, thơ Văn Cao không
thấy được in. Ông phải
lao đao mưu sinh bằng vẽ
bìa sách, minh hoạ báo,
sáng tác nhãn diêm, tem
thư… Tất cả đều không
được ghi bút danh thật
mà chỉ có chữ “Văn”.
Nhà Văn Sơn Tùng kể, có
hôm ông lếch thếch đi bộ
từ nhà sang gõ cửa gọi
vợ mình: “Chị Mai ơi !
Chị còn tiền đi chợ
không, đem mua cút rượu
về đây uống, mai kia có
nhuận bút cái tranh minh
hoạ ở báo Văn Nghệ tôi
lại đưa chị”.
Trong những cuốn sách ký
tặng nhà văn Sơn Tùng,
có cuốn ghi: “Thân
mến gửi anh chị Sơn Tùng
tập nhạc này để nhớ
nhiều ngày đã ăn cơn nhạt”
(Xuân Canh Thân).
Một hôm khác, đã gần
khuya, bỗng có tiếng đập
cửa nghe rất hung bạo.
Vừa mở cửa, thấy sững
người vì trước khung cửa
là một khuôn người lực
lưỡng, mặt méo mó như có
sẹo. Lấp ló phía sau là
Văn Cao rã rời, không
còn thần sắc. Hắn nắm
cánh tay đẩy Văn Cao
vào:
“Khượt rồi. Bảo đưa về
nhà với vợ, không chịu.
Chỉ đường đưa tới đây!”
Lúc tỉnh dậy, Văn Cao
rùng rợn kể lại chuyện
có người đến nhà rủ ra
quán. Một bọn hùa nhau
đổ cho Văn Cao thật say
rồi gọi xich lô chở đi.
Rã rượu, Văn Cao nhận ra
hình như đang nằm trong
một cái động nhà thổ,
ghê sợ lắm. (Người ta dễ
dàng liên tưởng đến vụ
kéo nhà thơ Bùi Minh
Quốc đi hát Karaoke và
vụ rủ tướng Trần Độ đến
khách sạn Hữu Nghị để bố
trí quay phim, chụp
ảnh.)
Vì sao Văn Cao có thời
gian dài “ngồi chơi xơi
nước”, có nhiều ngày
ăn cơm nhạt? Quả
tình Văn Cao chưa hề bị
tù như Nguyễn Hữu Đang,
Trần Dần, Phùng Cung…
Nhưng đối với những trí
thức như Văn Cao, cái
đòn “đắm đuối người trên
cạn mà chơi” còn độc ác,
còn gây đau khổ gấp mấy
lần tù giam lỏng.
Một số anh em trẻ hỏi
tôi lý do Văn Cao bị xử
lý. Câu trả lời của tôi
nói chung không đủ sức
thuyết phục và họ đều
cho rằng tôi không nắm
được vấn đề. Tôi đi hỏi
thêm một số người được
xem là có dính dáng đến
Nhân văn-Giai phẩm.
Chẳng câu trả lời nào
nghe cho thật có lý.
Chính bản thân Văn Cao
cũng không hiểu vì sao:
Tại sao tôi chạy?
tôi không hiểu
tôi
cả phố đuổi theo
tôi
xe cộ đuổi theo tôi
tôi chạy bạt mạng
gần hết đời
tới chỗ chỉ còn gục
xuống
tỉnh dậy mồ hôi chảy
tôi lại thấy tôi là
người chưa phạm tội
tôi rơi vào mạng
nhện
mạng nhện cuốn lấy
tôi
không còn cách gì gỡ
được
tôi như con sâu tằm
cuộc đời cứ như thế
muốn phá cái mạng
nhện
tôi không đủ tay
(Ba biến khúc tuổi
65)
Cho đến bây giờ, được
lạc vào Thiên Thai
rồi, chắc Văn Cao càng
không thể nào hiểu được.
Chỉ còn vọng lại những
tiếng kêu buồn thảm
thiết:
Tôi chỉ còn thoảng
nhớ
Một cái nhớ thuộc về
cơ thể
Những vết roi còn
nằm trong da thịt
nhiều năm
Những tiếng chửi
vọng suốt thời tôi
sống
(Không nhớ,
19.12.1963)
Chúng ta ngủ tìm một
cơn mộng
Quên một ban ngày đã
qua
nhọc nhằn chịu
đựng
(Quên, 25.6.1957)
Không
đất này mọc lên
từ
nước mắt!
(Quy Nhơn 3,
15.4.1985)
Nhưng Văn Cao dứt khoát
không bi luỵ, không rã
rời. Ông tự dằn vặt
mình. Ông quằn quại vươn
lên trong tột cùng đau
khổ một cách kiên cường:
Khi đêm tối tất cả
người tôi thức dậy
Những đam mê quên
ngủ suốt ngày
(Thức dậy, 2.3.1964)
Tôi đã mất sắc da
tuổi trẻ
Nhưng một tôi đã rắn
chắc lại rồi
Mùa xuân không kịp
nở
Mãi trong tôi
Những tháng ngày
khát khao hy vọng
(Trong mùa xuân đời
tôi, 9.10.1959)
Mùa xuân đi qua
không nở được
Còn giữ lại mãi cái
mầm trong suốt đời
tôi
Như một mầu luyến
tiếc
Nhưng một ngọn lửa
nhen cứ bùng lên
mãi mãi
Cho đến khi nào
chết đi nó vẫn chưa
nở được
Để phải mọc lên trên
mồ hôi những bông
hoa trắng nhất
Cho tuổi trẻ ngày
sau thấy một mùa
xuân
đã mất
Trong một chiến
tranh
Để xây ngày mai hạnh
phúc
Họ hái mãi những
bông hoa trắng đó
Và sống thêm phần
hạnh phúc của tôi
(Mùa xuân không nở,
8.1957)
Đầy đoạ một Nguyễn Văn
Cao - bậc tiền bối của
cách mạng - là sự chà
đạp lương tri một cách
tàn ác, làm nhơ danh
Đảng. Bóp nghẹt cái
Mùa–Xuân-Văn–Cao của đất
nước, của dân tộc, làm
cho nó không thể nào nở
được càng có tội bội
phần lớn hơn đối với
nhân dân Việt Nam.
Ai biết được còn bao
nhiêu Sông Lô,
bao nhiêu Thiên Thai…
đã nghẹn lại, không thể
ra đời. Và như thế đất
nước đã mất đi bao nhiêu
cái có thể còn quý giá
hơn những gì đã biết của
Văn Cao!
Vậy mà sao cho đến bây
giờ cũng chỉ có được mấy
giọt cảm thương một cách
rất rụt rè kiểu như thế
này: “Một nghệ sĩ chân
chính như Văn Cao không
thể không day dứt trước
bao nhiêu cái gọi là
‘thói đời’. Tất cả những
người cùng thời với Văn
Cao – chúng ta đều hiểu
ý nghĩa của Đai hội VI.
Vậy những ‘thói đời’ gì?
Sao lại để mãi đến Đại
hội VI mới sửa một phần
‘thói đời’” (Trần Bạch
Đằng).
Nhìn lại một thân phận
Văn Cao ở Việt Nam, ta
không thể không liên
tưởng đến Boris
Pasternak ở Liên Xô. Sau
khi cuốn tiểu thuyết
Bác sĩ Zhivago dược
trao giải thưởng Nobel,
bỗng dưng B. Pasternak
cũng bị nhâu nhâu chửi
bới, bị đuổi khỏi Hội
Nhà Văn Liên Xô, bị đe
doạ trục xuất khỏi đất
nước.
Như Văn Cao, Pasternak
đã từng kêu khóc thảm
thương trong bài thơ
Giải thưởng Nobel:
Tôi chết sững như
con thú bị lùa
Đâu đây có người, tự
do, ánh sáng
Còn sau lưng tôi là
tiếng xua đuổi ồn ào
Mà tôi không có ngả
nào thoát ra
…
Tôi đã làm gì xấu xa
Tôi sát nhân, tàn
bạo?
Tôi đã bắt cả thế
gian phải khóc
Thương vẻ đẹp quê
tôi
…
Với vòng dây thế này
ở cổ
Tôi vẫn còn ước ao:
Cánh tay phải của
tôi
Lau nước mắt giùm
tôi
Người ta cũng đã tìm mãi
mà không hiểu B.
Pasternak phạm tội gì,
ngoại trừ mấy dòng sau
đây trong cuốn Bác sĩ
Zhivago:
“Tai hoạ chính, căn
nguyên của cái ác trong
tương lai là việc mất
tin vào giá trị của ý
kiến cá nhân mình. Người
ta tưởng rằng đã qua rồi
cái thời cần làm theo sự
mách bảo của đạo đức,
tưởng rằng bây giờ phải
hót theo giọng điệu
chung và sống bằng quan
niệm của kẻ khác, những
quan niệm bị gán ép cho
hết thảy mọi người.”
Đồng thanh tương ứng,
Văn Cao cũng từng viết:
“Người làm thơ biết
thành lập cho mình một
cá tính trong suy nghĩ,
trong tình cảm, trong
cảm giác những điều mới
lạ bao nhiêu là làm
phong phú thêm cho người
đọc về mặt tư tưởng, cảm
xúc hay cảm giác .”
(Mấy ý nghĩ về thơ,
1957)
Thì ra, dù biết vì nhân
dân quên mình, xả thân
đi làm cách mạng nhưng
lại không biết khom lưng
cúi đầu, làm nô lệ cho
những thế lực nhân danh
Đảng; lại còn, giống như
B. Pasternak, biểu dương
cá tính, kêu gọi tôn
trọng cái tôi, bênh vực
quyền con người thì
trong cái chế độ tập
trung dân chủ, Văn Cao
tất phải mang thân phận
Văn Cao.
Tuy nhiên, Mùa Thu tuồng
như đã lại đến. Cái Mùa
Thu buồn vui lẫn lộn. Cứ
thấy miên man như Văn
Cao:
Nắng chuyển dần
trên thềm đá cũ
mùa thu năm nay
không mưa ngâu
(Mùa Thu, Trung thu
1992)
|
|
|
|
|
|
|