"Tự Do Hay Là Chết !”
Nguyễn Thanh Giang
Trích từ Điện Thư - Số 29
Tháng 11 năm 2004 - Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam
Vào một
sáng hừng hực đầu mùa hạ năm Giáp Thân (ngày 5 tháng 5 năm 2004), tại Hà
Nội. lời tuyên bố trên đã dõng dạc vang lên trong phiên toà xử nhà trí thức
trẻ ngoan cường Nguyễn Vũ Bình.
Nguyễn Vũ Bình sinh ngày 02 tháng 11 năm 1968 tại Hành Thiện, Nam Định. Anh
tốt nghiệp khoa Kinh tế - trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trở thành nhà báo
tại Tạp chí Cộng sản. Sau 8 năm công tác, anh bị đuổi khỏi biên chế nhà nước
chỉ vì cái tội dám nộp "Đơn
xin thành lập đảng Tự do-Dân chủ".
Không có điều kiện tìm hiểu quá trình hình thành nhân cách của chàng thanh
niên đã lớn lên trên một miền quê có nhiều nhà cách mạng như Trường Chinh,
Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ, Đinh Đức Thiện ... (không nói đến những tha hoá,
sai lầm sau này mà tưởng niệm về cái lý tưởng ban đầu duổi giặc ngoại xâm,
xoá bỏ áp bức bất công của các ông), chỉ điểm qua những hành động dũng cảm,
những phát biểu rất trí tuệ và đầy trách nhiệm qua một số trang viết cũng đủ
thấy cái sức nghĩ lớn lao, cái bản lĩnh cao cường của con người ưu thời mẫn
thế này.
Từ những bức xúc, trăn trở
...
Theo
Nguyễn Vũ Bình, "Có thể khái quát trạng thái hiện nay của tình hình đất
nước ta là: bế tắc về dường lối, đình trệ về kinh tế và dồn nén về xã hội"
(1)
Thật vậy, về sự bế tắc đường lối, không chỉ Nguyễn Vũ Bình mà tất cả những
đầu óc tỉnh táo đều dễ dàng nhận thấy: "Kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là một khái niệm rất mâu thuẫn. Chủ nghĩa xã hội, với tư
cách là một thể chế xã hội (theo định nghĩa kinh điển), là một chế độ mà về
mặt kinh tế phải xây dựng trên cơ sở công hữu hoá về tư liệu sản xuất, quản
lý tập trung và kế hoạch hoá ..., rõ ràng mâu thuẫn với kinh tế thị trường"
(1). Song, vì cứ phải đa đoan, vướng víu với tôn chỉ mục đích
"Định hướng xã hội chủ nghĩa" nên Đảng cứ phải ngoan cố duy trì chủ trương
ưu tiên bằng mọi giá để giành vai trò chủ đạo cho kinh tế quốc doanh và
doanh nghiệp nhà nước. Nguyễn Vũ Bình thì khẳng định rằng: "Với quan điểm
kinh tế nhà nước (nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước) giữ vai trò chủ đạo,
nền kinh tế Việt Nam không thể phát triển được. Trên thế giới chưa có một
nước nào mà doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả" (1).
Anh đưa dẫn liệu cụ thể để chứng minh hiện tương "ăn tàn phá hại" của DNNN.
"Phần lớn lượng vốn xã hội đầu tư vào khu vực DNNN không có hiệu quả.
DNNN sử dụng hơn 80% lượng vốn xã hội, giữ vai trò quan trọng trong sản xuất
và đóng góp vào ngân sách nhà nước nhưng khả năng tích luỹ còn rất hạn chế.
Trên thực tế, tổng số nợ của DNNN năm 1999 đã lên tới khoảng 200 000 tỷ
đồng" (1)
Bế tắc nhưng không dám tự sám hối để tìm đường mới tiến lên mà cứ phải quanh
co, biến báo qua chủ trương "Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước", Nguyễn Vũ
Bình thẳng thắn chỉ rõ: "Với quan điểm kinh tế nhà nước mà nòng cốt là
DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, một điều hiển nhiên là nếu những
doanh nghiệp này làm ăn có lãi (có hiệu quả) thì chúng ta sẽ không bao giờ
bán (cổ phần hoá) chúng. Ngược lại, những doanh nghiệp thua lỗ, thử hỏi, nếu
bán chúng thì ai mua ? DNNN được ưu tiên, ưu đãi mọi điều kiện mà còn làm ăn
thua lỗ thì ai là người có khả năng kinh doanh hiệu quả trong môi trường
hiện nay ? Còn nếu dùng tỷ lệ vốn khống chế cuả nhà nước thì bản chất nó vẫn
là DNNN và không thể có hiệu quả. Một chính sách mà mâu thuẫn ngay từ trong
lý luận thì làm sao thực hiện được trên thực tế !" (2)
Lẽ ra phải chính thức thừa nhận sự tồn tại cần thiết của kinh tế tư nhân và
có các chủ trương chính sách cởi mở tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát
triển từ sớm hơn. Bởi vì, thực tế đã cho thấy, kinh tế tư nhân là động lực
phát triển của tất cả các nền kinh tế thị trường phát triẻn trên thế giới.
Khu vực này không phát triển thì nền kinh tế cũng không phát triển được. Anh
nóng lòng vạch ra 3 nguyên nhân quan trọng làm cho khu vực kinh tế tư nhân
không phát triển được là :
1)
Không thừa nhận sở hữu tư nhân, dẫn tới việc tư nhân kinh doanh không được
bảo đảm và bảo vệ bằng pháp luật.
2) Kinh tế thị trường chưa chín muồi (chưa tạo lập đầy đủ và đồng bộ
các thị trường), chưa có hệ thống pháp luật cho kinh tế thị trường phát
triển, dư luận đối với kinh tế tư nhân còn nhiều nặng nề, định kiến (mãi sau
này ta mới có những hoạt động biểu dương và tôn vinh các nhà doanh nghiệp và
mới đây, ngày 13 tháng 10 hằng năm mới được chọn là ngày Doanh nghiệp Việt
Nam).
3) Sự méo mó của hoạt động sản xuất kinh doanh do việc ưu tiên quá mức
cho các DNNN.
Những
nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội không cho phép thiết chế một nền kinh tế thị
trường đích thực và vũng mạnh do đó không thể không gây nhiều trắc trở trong
tiến trình hội nhập tất yếu. Nguyễn Vũ Bình tiên đoán: "Để thu hút vốn,
kỹ thuật và trình độ quản lý cho phát triển kinh tế thì hội nhập là yêu cầu
nhất thiết đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Song hội nhập lại đòi hỏi các nền
kinh tế phải đáp ứng đầy đủ những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường. Và
bất kỳ nền kinh tế nào đi ngược lại hoặc chưa bảo đảm về cơ bản các nguyên
tắc thị trường thì đều bị tổn thương trong quá trình hội nhập" (1).
Lời phán bảo này, Nguyễn Vũ Bình viết từ năm 2000. Quả nhiên, chỉ sau đó mấy
năm nó đã ứng nghiệm nhỡn tiền vào mấy vụ kiện tôm và cá basa làm cho ta bị
xiểng liẻng.
Bế tắc về đường lối như trên dẫn đến nhiều tai hoạ cho đất nước, trước hết
là đình trệ về kinh tế. Những người lãnh đạo thường đem chỉ tiêu tăng trưởng
cao ra để tự khích lệ và làm vũ khí tuyên truyền. Bằng tri thức của nhà kinh
tế, Nguyễn Vũ Bình phân tích: "Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế có một khuyết
điểm rất lớn là nó không chỉ cho người ta biết được khả năng thanh toán hay
khả năng trả nợ của một nền kinh tế mà đây là điểm quan trọng nhất. Tôi hình
dung nền kinh tế Việt Nam như một quỹ tín dụng nhân dân khỏng lồ (dân gian
gọi là chủ hụi) chưa bị vỡ nợ. Đặc điểm của những quỹ tín dụng này là khả
năng che đậy thực lực tài chính bằng phương pháp vay của người sau, trả cho
người trước và nó chỉ bị vỡ tung khi bị phát hiện hoặc không vay được nữa.
Theo số liệu công bố chính thức, tổng số nợ của nước ta là 11 tỷ USD, nhưng
số thực có thể là gấp rưỡi hoặc gấp đôi (xấp xỉ 20 tỷ USD), tức là số nợ
tương đương hoặc bằng 2/3 tổng sản phẩm quốc nội của nước ta." (1)
"Vấn đề đói nghèo cũng có kịch bản tương tự. Đằng sau những con số mỹ
miều về thành tích xoá đói giảm nghèo là cuộc sống cùng cực của những người
công nhân, nông dân, những người lao động. Bởi vì những con số chỉ phản ánh
được mức tăng đơn thuần về lượng của thu nhập mà không biết tới một chu kỳ
"tiêu dùng mới "của toàn xã hội trong những năm qua". Trong 10 năm (1990 -
1999) qua, chúng ta đã bước sang một chu kỳ tiêu dùng mới với những chi tiêu
cho giáo dục, y tế, những khoản đóng góp mới, với những chi tiêu cho những
hủ tục ở nông thôn mới trỗi dậy và những khoản tiêu cực phí cho bất kỳ công
việc nào ... Những con số tăng lên nhỏ nhoi về thu nhập liệu có lấp đầy
những chi phí phát sinh trong chu kỳ tiêu dùng mới của những hộ đói nghèo ?
(1)
Đánh giá về công trạng của Đảng đối với đất nước, Nguyễn Vũ Bình thấy cả hai
mặt: "Được : Độc lập dân tộc. Mất: 1) hy sinh khoảng 4-5 triệu người,
thương tật cũng khoảng con số đó; 2) Việt Nam là một trong vài chục nước
nghèo nhất thế giới; 3) Nền tảng đạo đức bị phá huỷ nghiêm trọng"
(4). Ngày nay, bế tắc về đường lối còn dẫn đến một hệ quả đau lòng hơn
là nó làm cho "những nền tảng cơ bản của xã hội Việt Nam đã bị phá huỷ
hoàn toàn" (1). Anh cụ thể hoá khái luận này như sau:
- "Tính trung thực xã hội đã bị phá huỷ hoàn toàn ... Sự không trung
thực bắt nguồn từ hệ thống chính trị, thẩm thấu vào hệ thống quản lý và lan
toả ra toàn xã hội. Một đặc trưng của xã hội hiện nay là không ai dám nói
thật và rất sợ sự thật ...
- Đạo đức xã hội đã bị phá huỷ nghiêm trọng.
- Những quan hệ xã hội, trong đó quan hệ con người với con người là cơ
bản, và quan hệ tình cảm hợp thành nền tảng đạo đức xã hội bị phá huỷ nghiêm
trọng bởi sự ra đời và lên ngôi của một thứ quan hệ "đồng chí" ... tồn tại
bằng một sự lên gân và tiêu diệt các mối quan hệ khác ...
- Những giá trị xã hội và thước đo giá trị xã hội đã bị đảo lộn do sự
can thiệp sâu rộng của chính trị vào tất cả các lĩnh vực và trên mọi phương
diện ...
- Con người bị tha hoá ... người ta không được phép nói ra những điều
mình suy nghĩ, hành động theo những gì người ta cho là đúng, tức là mình
không phải là mình. Có người nói rằng, con người ngày nay là con người nhị
nhân cách nhưng theo tôi thì những người nhị nhân cách đó là những người
không có nhân cách. Làm sao mà có nhân cách được trong khi tất cả các phát
biểu chính thức, những cuộc họp, hội thảo, anh nghĩ một đàng lại nói một
nẻo" (1)
Nguyễn
Vũ Bình chỉ ra 3 nguyên nhân dẫn đến những dồn nén xã hội. Một là: do điều
kiện sống, sinh hoạt khổ cực của nông dân và công nhân. Nông dân bị huy động
đóng góp quá mức (thời điểm Nguyễn Vũ Bình bàn luận, nông dân, tuỳ theo từng
địa phương, bị đóng góp từ 13 đến 21 khoản, chiếm tới trên dưới 70% thu
nhập). Hai là: bất công giữa phân hoá giầu nghèo, giữa nông thôn và thành
thị ngày càng sâu sắc. Trong khi những người nông dân ở nông thôn và những
người công nhân phải vật lộn rất vất vả với cuộc sống khổ cực thì những
người có quyền có chức câu kết với gian thương hình thành một tầng lớp tư
bản đó ăn tiêu quá phè phỡn. Ba là : cảm nhận về sự bế tắc đối với tương
lai. Công nhân, nông dân nhiều người mù mịt trong khả năng tìm kiếm việc làm
và xây dựng cuộc sống. Trí thức không thấy được triển vọng đất nước phát
triển lành mạnh và bền vững.
... đến quyết định đệ đơn
thành lập đảng Tự do - Dân chủ
Từ
những nhận định trên đây, Nguyễn Vũ Bình cho rằng đất nước Việt Nam nhất
định cần phải có biến đổi mạnh mẽ. Có 3 kịch bản:
Hoặc là, sự sụp đổ về kinh tế dẫn tới động loạn xã hội và thay đổi về chính
trị (như ở Anbani và Indonêxia). Nguyễn Vũ Bình cho rằng tình huống này khó
xẩy ra bởi khả năng can thiệp và tinh thần cảnh giác cao của Nhà nước trước
những biến động kinh tế.
Hoặc là có sự thay đổi chế độ bắt nguồn từ sự thay đổi đường lối chính trị
do những người lãnh đạo cao nhất khởi xướng. Nguyễn Vũ Bình loại bỏ hoàn
toàn khả năng này vì cho rằng: "Tất cả sự lựa chọn và thay đổi khó khăn
nhất của ĐCS tập trung vào hai điểm mấu chốt là DNNN và chống tham nhũng.
Nếu từ bỏ được quan điểm DNNN giữ vai trò chủ đạo, đồng nghĩa với việc phát
triển kinh tế tư nhân, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế của đất nước
và chống tham những, đồng nghĩa với việc làm trong sạch Đảng và lấy lại được
uy tín trước nhân dân ... Nhưng than ôi ! điều đó nằm ngoài khả năng hiện
thực. Bởi vì loại bỏ DNNN cũng chính là từ bỏ lợi ích sống còn của tầng lớp
lãnh đạo, lợi ích được bao phủ bởi vẻ đẹp huyền ảo (không ai hiểu được) của
định hướng XHCN, của con đường đi lên CNXH hiện nay. Còn chống tham nhũng ư
? Tham nhũng ở Việt Nam là phương thức tự tồn tại của tất cả những người có
điều kiện tham nhũng" (1)
Trong thư gửi Bộ Chính trị ngày 20 tháng 9 năm 2000, anh thẳng thắn bầy tỏ
sự bất tín đối với Đảng: "Ở đây có 3 tầng lợi ích riêng và tương ứng là 3
tầng sự nghiệp chung. Một là, chưa sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân cho đơn
vị, cơ quan mình. Hai là, chưa sẵn sàng hy sinh lợi ích của tầng lớp lãnh
đạo cho sự nghiệp chung của Đảng. Ba là, chưa sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng
của Đảng cho lợi ích chung của đất nước, dân tộc" (2)."Với
cơ chế tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tất cả những tiêu cực, lãng phí,
tham nhũng, vô trách nhiệm không thể nào diệt trừ được tận gốc để làm trong
sạch đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước. Nhiều lúc tôi cứ nghĩ, bây giờ chỉ
cần gắn trách nhiệm cá nhân với tất cả mọi công chức, đảng viên, nhà lãnh
đạo, nhà quản lý vào công việc hàng ngày, hàng giờ của họ thì mọi việc sẽ
được giải quyết êm đẹp. Nhưng có lẽ tôi nhầm, bởi vì trong tình hình hiện
nay, nếu gắn trách nhiệm cá nhân như vậy, phần lớn mọi người sẽ bỏ nhiệm sở
và tổ chức. Đối với dảng Cộng sản cũng tương tự, thực chất Đảng không phải
chịu trách nhiệm trước bất kỳ ai, bất kỳ lực lượng nào" (2).
Anh càng tỏ rõ sự bất tín và phản ứng quyết liệt trước hành động cắt nhượng
đất đai, lãnh thổ một cách tội lỗi của Đảng: "Đối với giới lãnh đạo hiện
nay, một tâm lý và phong cách ứng xử phổ biến là chỉ quan tâm đến phạm vi,
lĩnh vực và đơn vị mình quản lý để làm sao không xẩy ra sự cố nào có thể ảnh
hưởng tới chiếc ghế quyền lực hiện tại và khả năng thăng tiến trong tương
lai. Ngoài ra người ta không quan tâm tới những gì xẩy ra trước khi tiếp
nhận và sau khi thay đổi đối tượng quản lý. Hay nói cách khác, với sự tha
hoá nhân cách và cảm nhận sự bế tắc của tương lai, thực chất giới lãnh đạo
hiện nay không có trách nhiệm gì trước vận mệnh của dân tộc cũng như không
hề đại diện quyền lợi của nhân dân. Chính với lối suy nghĩ như vậy về trách
nhiệm mà ban lãnh đạo đảng Cộng sản đã ký kết hiệp định biên giới vừa qua"
(5)
Nguyễn Vũ Bình kỳ vọng ở phương án thứ ba với các tình huống: sự gia tăng
mức bức xúc của cả ba yếu tố: khó khăn về kinh tế, sự dồn nén xã hội, sự
phân hoá của các tầng lớp lãnh đạo mở đường cho sự xuất hiện lực lượng đối
lập.
Anh quả quyết, sẽ không còn con đường nào khác, "ĐCS Việt Nam phải có một
quyết tâm và một sự hy sinh cực kỳ to lớn nhưng cần thiết. Đó là ĐCS cần tự
đặt mình vào thử thách sống còn trước khi bị xã hội làm điều đó.. và tôi tin
rằng, nếu ĐCS thực sự vì dân, vì nước, thực sự muốn lấy lại lòng tin của
nhân dân để tiếp tục lãnh đạo dất nước thì quyết định duy nhất đúng hiện nay
là từ bỏ độc quyền lãnh đạo, thực hiện đa nguyên tư tưỏng, đa đảng đối lập".
(1)
Nguyễn Vũ Bình không chỉ rất lý trí, anh còn là một người "ưa hành động"
(3). Bài "Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang - một tấm gương đấu tranh
cho tự do và dân chủ" của anh được kết thúc bằng câu: "Tôi cho rằng đã
đến lúc phải hành động chứ không chỉ bàn luận và góp ý". Đấy vừa là lời
phê phán vừa là tuyên bố của anh.
Trong bài trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 15 tháng 6 năm 2002, anh nói:
"Tôi nghĩ rằng việc viết là rất quan trọng nhưng tôi không cho rằng đấy là
vấn đề quan trọng nhất đối với tôi. Vấn đề quan trong nhất đối với tôi là
hình thành được một lực lượng đối lập và manh nha của nó là một tổ chức công
khai ... Đó là vấn đề thiết tha nhất của tôi từ khi tôi bắt đầu tham gia đấu
tranh cho đến bây giờ và tôi tin là sau này cũng vậy."
Và anh
đã hành động quyết đoán.
Ngày 2
tháng 9 năm 2000, anh đệ trình tờ đơn sau dây:
Đơn xin thành lập đảng Tự do - Dân chủ
Kính gửi : Ông Trần Đức Lương
Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam
Đồng kính gửi ông : Nông Đức Mạnh
Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tên tôi là : Nguyễn Vũ Bình, phóng viên Tạp chí Cộng sản, thường trú
tại số nhà 26, tổ 67b, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng- Hà Nội.
Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình đất nước, tôi có
nhận thức rằng Việt Nam hiện nay đang đứng trước một cuộc tổng khủng hoảng
toàn diện về kinh tế, chính trị và xã hội (Tôi xin gửi kèm một bài, viết về
vấn đề này). Theo nhận định của tôi, trong tương lai không xa nữa, sẽ có một
sự thay đổi lớn của lịch sử đất nước và đó chính là sự thay đổi về chế độ xã
hội. Việc có một lực lượng đối lập, mà đại diện là một chính đảng trong lòng
xã hội hiện nay là yêu cầu bức thiết và tất yếu để giảm thiểu những tổn thất
mà nhân dân phải gánh chịu trong quá trình thay đổi. Trên cơ sở nhận thức
như vậy, tôi mạnh dạn làm đơn này đề nghị và kính mong các Ông, vì tương lai
đất nước, vì lợi ích dân tộc, cho phép tôi thành lập đảng Tự do-Dân chủ.
Tôi xin chân thành cảm ơn.”
Anh bộc
bạch về động cơ đứng ra thành lập đảng: "Tôi vì Tôi là một phần (mà các
Ông cho là như nguòi đốt đền), Tôi vì nhân dân, đất nước một phần (Tôi cho
là phần lớn), mà Tôi cũng vì cả đảng Cộng sản Việt Nam nữa" (2).
"Tôi chỉ có một mong muốn duy nhất là làm sao góp phần giảm thiẻu tối đa
những tổn thất mà nhân dân phải gánh chịu nảy sinh từ bước chuyển biến đau
đớn nhưng đầy vinh quang sắp tới. Lý do cũng rất đơn giản, một thay đổi lớn
của lịch sử nếu không có sự chuẩn bị về tinh thần của nhân dân sẽ rơi vào
hỗn loạn, dẫn tới hậu quả khôn lường cho xã hội. Chính vì vậy, cần có một
lực lượng đối lập ngay trong lòng xã hội hiện nay để một mặt, thúc đẩy tất
cả các yếu tố sẵn có đi tới chín muồi, và mặt khác, cùng với thời gian và sự
thay đổi, tạo ra một nền tảng vững chắc cho một cơ cấu dân chủ trong tương
lai" (1).
Về tôn chỉ, mục đích: "Đảng Tự do-Dân chủ có mục đích tự thân là đấu
tranh cho Tự do cá nhân và Dân chủ xã hội... Mục tiêu cơ bản và lâu dài của
đảng Tự do - Dân chủ là xây dựng một xã hội: Nhân dân tự do-giàu có, Quốc
gia hùng mạnh, Xã hội dân chủ-công bằng-văn minh" (1).
Anh nhấn mạnh cả Tự do cá nhân và Dân chủ xã hội vì cho rằng: "Tự do là
cứu cánh phát triển. Một cá nhân hay một dân tộc xét cho cùng sự hơn kém phụ
thuộc vào khả năng sáng tạo, mà tiền đề của sự sáng tạo là tự do. Dân chủ là
phương thức xã hội bảo đảm cao nhất tự do của con người, và trên nền tự do,
mỗi một cá nhân phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình để thúc đẩy xã
hội tiến lên" (4).
Anh phác hoạ tiên đề, nội dung và điều kiện cho sự phát triển đất nước là:
"Dân chủ hoá xã hội, Xây dựng nền kinh tế hiện đại và phát triển, Quốc tế
hoá mọi hoạt động, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ...
Dân chủ hoá xã hội là phải thừa nhận những quyền cơ bản của con người,
quyền công dân mà bất kỳ chế độ dân chủ nào cũng phải thừa nhận. Đó là quyền
được sống và mưu cầu hạnh phúc, quyền được tự do ứng cử và bầu cử. Mặt khác,
cần xây dựng hệ thống luật pháp làm nền tảng cơ bản cho chế độ chính trị dân
chủ ...
Xây dựng nền kinh tế thị trường mà trong đó quyền tư hữu tài sản là nền
tảng phát triển, quyền sở hữu trí tuệ là động lực phát triển ..."
(1)
"... xoá bỏ cơ chế cũ (cơ chế kế hoạch hoá, quan liêu bao cấp và sự biến
dạng của nó dựa trên sự độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản), xây dựng các
thiết chế dân chủ. Điều này có thể là đúng nhưng hoàn toàn chưa đủ, tất cả
những thay đổi trên phải dựa vào sự thay đổi về tâm lý và văn hoá dân tộc
mới bảo đảm sự phát triển ổn vững trong tương lai" (4).
Người ta thường phân chia các nước dân chủ trên thế giới thành hai nhóm nước
: dân chủ tự do và dân chủ tuyển cử. Các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Đức,
Anh, Pháp Ẩthuộc về dân chủ tự do. Phần lớn các nước khác tuy cũng có đầy đủ
các thiết chế dân chủ, nhưng nền kinh tế chưa phát triển thường thuộc về dân
chủ tuyển cử. Nguyễn Vũ Bình nghiêng về chế độ dân chủ đại nghị vì anh cho
rằng: "chế độ dân chủ đại nghị dựa trên cơ chế tản quyền sẽ phát huy tối
đa tiềm năng cũng như đem lại tất cả phúc lợi cho người dân ... phúc lợi mà
một chế độ dân chủ tản quyền đem tới như sự phát triển đồng đều ở tất cả các
khu vực, giảm thiểu những thủ tục hành chính của cơ chế tập trung, loại bỏ
ảnh hưởng tiêu cực của giới quân nhân đối với sinh hoạt chính trị ..."
(4)
... Và tai hoạ ập xuống
Tháng
12 năm 2000 Nguyễn Vũ Bình bị đình chỉ công tác ở Tạp chí Cộng sản và bị
đuổi khỏi biên chế nhà nước. Ngày 20 tháng 7 năm 2001, công an xộc đến khám
nhà, tịch thu tài liệu, bắt anh lên đồn thẩm vấn nhiều ngày. Điện thoại nhà
anh bị cắt. Sau đó đúng một năm, anh bị tống giam thực sự. Phiên toà sơ thẩm
mở ngày 31 tháng 12 năm 2003 ghép anh vào tội gián điệp theo điều 80 Bộ Luật
Hình sự với mức án 7 năm tù giam và 3 năm quản chế. Ngay sau đó, anh đã gửi
đơn kháng án. Phiên toà phúc thẩm mở ngày 5 tháng 5 năm 2004 vẫn y án sơ
thẩm mặc dù trong phiên xử anh đã bác bỏ mọi điều luận tội vô lý và các luật
sư đã biện giải hết sức thuyết phục.
Luật sư
Trần Lâm tranh luận: "Theo điều 80 BLHS muốn kết tội một người làm gián
điệp thì phải chứng minh đủ rõ người đó đã làm tay sai cho nước ngoài, làm
theo sự chỉ đạo của nước ngoài ... Nước ngoài ở đây phải hiểu là một nước
khác, một quốc gia khác, phải là đại diện của một chính phủ hay là một tổ
chức tình báo, chứ không phải một công dân của nước đó, càng không phải là
một ngoại kiều nào đang sống ở nước đó". Bản án gian trá, bất nhân còn
làm luật sư không thể không bình luận một cách hài hước: "Những Việt kiều
ở Canada, ở Úc ... ở khắp nơi trên thế giới đều là người nước ngoài, vậy thì
Nguyễn Vũ Bình làm gián điệp cho năm châu bốn biển, cho khắp thế giới à ?!"
Luật sư
Đàm Văn Hiếu biện minh rõ hơn: "Tin tức, tài liệu đã cung cấp, theo lời
khai của Nguyễn Vũ Bình chỉ là trao đổi quan điẻm về dân chủ với cá nhân đó,
chứ không có gì liên quan đến an ninh hay bí mật quốc gia ... Một điều đáng
chú ý nữa là : Hoạt động của bọn gián điệp bao giờ cũng lén lút, kín đáo, bí
mật, tránh để nhà nước và mọi người phát hiện. Còn Nguyễn Vũ Bình lại công
khai tuyên bố quan điểm của mình về dân chủ, nhân quyền và chống tham nhũng.
Không hề lén lút, dấu diếm .. Các bài viết của Bình đều để trên bàn làm
việc, không hề cất dấu khi bị khám xét nhà. Không những thế, Bình còn đường
hoàng gủi đến Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quốc hội lá đơn xin thành
lập đảng Tự do- Dân chủ với tư cách là một lực lượng đối lập ... Như vây,
việc làm của Bình là hợp Hiến, đúng với pháp luật nước ta và luật pháp quốc
tế. Qua những trình bầy ở trên, tôi cho rằng Nguyễn Vũ Bình không phạm tội
gián điệp, bản án sơ thẩm xử phạt Bình theo tội danh gián điệp là trái với
tinh thần và nội dung của điều 80 BLHS. Tôi đề nghị hội đồng xét xử phúc
thẩm huỷ bản án sơ thẩm".
Cựu
viện trưởng Viện Triết học Việt Nam Hoàng Minh Chinh còn quyết liệt hơn:
"Tôi - Hoàng Minh Chính - Bào chữa viên nhân dân hợp pháp của bị cáo nhà báo
vô tội Nguyễn Vũ Bình chính thức đưa đơn kiện Viện Kiểm sát và Toà án Thành
phố Hà Nội về tội vu khống cho nhà báo Nguyễn Vũ Bình tội gián điệp".
Vì bất
chính và phi nghĩa nên phiên toà xử Nguyễn Vũ Bình tuyên bố là xử công khai
nhưng thực tế rất lén lút. Chỉ có vợ và cha đẻ được vào dự phiên toà (Tuy
nhiên, người ta cũng đã dùng thủ đoạn xấu để ngăn trở. Cụ thân sinh Nguyễn
Vũ Bình đã ngót nghét 80 lại ở cách xa Hà Nội trên 130 km nhưng chỉ nhận
được giấy báo trước một ngày. Đã thế trước khi vào xử, cụ còn bị đe là không
nên phát biểu gì trong phiên toà).
Thế là,
tất cả anh em ruôt thịt, bạn bè, thân thích, phóng viên báo chí và thông tấn
nước ngoài, đại diện các đại sứ quán Hoa Kỳ và Châu Âu ..., rất đông, đều
phải đứng ngoài cổng. Tại đây đã xẩy ra lộn xộn, ẩu đả. Mấy tên lưu manh (mà
ai cũng cho là tay chân của công an) đã xông vào chửi bới, đánh đập và cào
rách mặt chị ruột Nguyễn Vũ Bình (trước mặt công an nhưng công an không can
thiệp). Các nhà báo nước ngoài động lòng trắc ẩn đã đứng quây thành vòng che
chắn cho người đang bị hành hung. Bọn đầu gấu thực thi nhiệm vụ quá tích cực
nên đánh nhầm cả vào người nước ngoài. Một nữ phóng viên Châu Âu nhún vai,
lắc đầu: "Trước kia người Việt Nam rất đẹp, dũng cảm chống ngoại xâm, bây
giờ thì người Việt Nam rất xấu ..."
Cựu ký
giả Trường Sơn đã tường thuật và bình luận: "Phiên toà phúc thẩm đã làm
điều thất nhân tâm lại thất chính trị. Thất nhân tâm ở chỗ đã làm mất niềm
tin trong nhân dân. Nhân dân không tin vào toà án, vì pháp luật không được
tôn trọng, kết tội bừa bãi, không đủ chứng cứ, do đó càng không tin vào chế
độ dân chủ gấp triệu lần tư bản, như lãnh đạo vẫn nói. Nhân dân thì bảo, có
mà ngược lại thì mới đúng, nghĩa là chuyên chế và độc tài gấp triệu lần tư
bản. Còn thất chính trị ở chỗ, làm nước ta bị cô lập với thế giới. Thế giới
thường lên án, chỉ trích Việt Nam vi phạm nhân quyền. Đây lại là một chứng
cớ để họ kết tội mình".
Khinh
bỉ đến tột độ bọn người chỉ biết úp mặt vào miếng cơm tấm áo, sẵn sàng bán
rẻ lương tâm để làm nô lệ cho cường quyền, nhà trí thức Tuệ Minh xỉ vả:
""Lũ người máy" đại diện cho pháp luật", được chủ của chúng bấm nút, ngang
nhiên phỉ nhổ vào pháp luật. Nói thật, tôi không thể nào gọi họ là "những
con người", chỉ trừ một kẻ mà tôi cho rằng còn có thể có chút tính người, đó
là kẻ đọc lời tuyên án. Mặt anh ta cúi gầm, không dám nhìn lên. Dường như
anh ta cũng nhận thấy chính anh ta mới là kẻ đang làm điều tội lỗi"
Kết
thúc phiên xử, khi được chánh án cho nói lời cuối cùng, Nguyễn Vũ Bình dỗng
dạc phủ nhận hoàn toàn phiên toà và tuyên bố "Đối với tôi bây giờ chỉ
có tự do hay là chết !". Quả vậy, trong tù anh đã tuyệt thực nhiều
ngày trước khi được hứa hẹn lừa mỵ rằng sẽ xét lại bản án.
Tuệ
Minh, trong bài viết: "Nguyễn
Vũ Bình - Ngọn hải đăng trong đêm tối" đã nhiệt thành vinh danh
và kêu gọi: "Nước Việt Nam thân yêu của chúng ta dang rất cần một xã hội
dân chủ - tự do để phát triển. Chúng ta cần biết bao những con người tham
gia tranh đấu cho lẽ phải, cho nền dân chủ của đất nước chúng ta. Trong cuộc
đấu tranh gian nan ấy, Nguyễn Vũ Bình xứng đấng là một trong những biểu
tượng sáng ngời cho tuổi trẻ noi theo. Ngọn hải đăng Nguyễn Vũ Bình đang soi
đường cho các bạn".
Riêng
tôi, tôi không thể không xót xa, căm giận mỗi khi nghĩ đến cảnh tù đầy
nghiệt ngã, dã man giành cho một con nguời từng khao khát và tin tưởng ở tự
do như Nguyễn Vũ Bình. Anh từng viết những dòng có cánh khi trao đổi với một
tác giả nước ngoài: "Thưa tác giả, ở Việt Nam đã có chim. Tôi đã nhìn
thấy những đàn chim 5 đến 7 con, ở nông thôn nhiều hơn. Cân bằng sinh thái
đang trở lại, hy vọng sự cân bằng cũng sẽ trở lại trong tâm hồn người Việt
nam" (4).
Tôi
càng thương xót hai cháu nhỏ: Thanh Hà và Thuận Linh, con gái Nguyễn Vũ
Bình, trong những năm tháng tuổi thơ bơ vơ vắng bố, càng cảm phục Bùi Kim
Ngân. Cũng như Vũ Thuý Hà- vợ bác sỹ Phạm Hồng Sơn, Bùi Kim Ngân đang không
những phải "Sầu ôm nặng xếp chồng làm gối" qua đằng đẵng tuổi thanh xuân vò
võ mà còn phải nai lưng một mình kiếm sống, nuôi dạy con cái và tháng tháng
vượt non trăm cây số đi tiếp tế cho chồng song vẫn tỉnh táo kiên cường đấu
tranh chống cường quyền, bảo vệ lý tưởng của chồng, góp sức cổ suý mạnh mẽ
cho công cuộc đấu tranh chung vì sự nghiệp dân chủ hoá đất nước. Họ xứng
đáng là những nữ anh hùng trên chiến tuyến mới gian nan hôm nay.
Nghĩ về
ý chí ngoan cường và sụ hy sinh lớn lao của họ: những Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn
Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Bùi Kim Ngân, Vũ Thuý Hà -- tôi thường liên tưởng
đến Petofi - nhà thơ cách mạng Hungari:
Tự
do và ái tình
Vì các người, ta sống
Vì tình yêu lồng lộng
Tôi hiến cả đời tôi
Vì tự do muôn đời
Tôi hy sinh tình ái
Đáng
vinh danh biết bao những con người thấy trước hiểm nguy mà vẫn hiên ngang
xốc tới: "Tôi biết rằng, có thể tôi sẽ phải hy sinh nhưng vẫn tin tưởng
tuyệt đối là: Lịch sử sẽ sang trang, nhân dân Việt Nam nhất định sẽ được
hưởng Tự do và Dân chủ trong một tương lai không xa nữa. Và, trên nền của Tự
do và Dân chủ, nhân dân Việt Nam sẽ làm cho cả thế giới phải kinh ngạc về
dân tộc mình, đất nước mình không kém những gì họ đã làm trong lịch sử"
(1)
Và vững
tin: "Dù có bất kỳ trở ngại nào, dù có ý muốn chủ quan của bất kỳ cá nhân
nào, lực lượng nào cản trở, dân tộc Việt Nam vẫn đi tới đích của lịch sử: Tự
do của cá nhân và Dân chủ cho toàn xã hội" (1)
Hà Nội,
sinh nhật lần thứ 36 của Nguyễn Vũ Bình
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6- Khu tập thể Điạ Vật lý Máy bay
Trung Văn - Từ Liêm - Hà nội
Điện thoại : 5 534370
|