VỀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC ĐẤT HIẾM Ở VIỆT NAM
Do việc Trung Quốc, nước cung ứng đến 97% đất hiếm trên thế giới, giảm bớt xuất khẩu loại khoáng sản này, nhiều quốc gia, đặc biệt là Nhật Bản, buộc phải tìm những nguồn cung cấp khác và đây là cơ hội để Việt Nam khai thác tài nguyên này. Nhưng khai thác đất hiếm cũng chứa đựng rất nhiều nguy cơ về môi trường, như bài học của Trung Quốc.
Đất hiếm chứa 17 nguyên tố hiếm có hàm lượng thấp trong vỏ Trái Đất. Đất hiếm được sử dụng trong việc chế tạo rất nhiều sản phẩm như micro, loa, tai nghe, các thiết bị âm nhạc, ổ cứng máy tính, trong cáp quang viễn thông, công nghệ màn hình LED, công nghệ in tiền, công nghệ bán dẫn, siêu dẫn, v.v. .
Trả lời phỏng vấn RFI từ Hà Nội, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, một nhà khoa học đã từng làm việc trong ngành điạ chất ở Việt Nam trong 34 năm trước khi nghỉ hưu, và đã từng là người phát hiện khả năng chứa uran ở vùng than Nông Sơn, cho biết thêm về đất hiếm :
“Các nguyên tố đất hiếm và các kim loại đất hiếm là tập hợp của 17 nguyên tố hóa học thuộc bảng tuần hoàn Mendeleev, có tên gọi là scandi, yttri và mười bốn trong mười lăm của nhóm Lantan. Trong đó, yttri xuất phát từ tên làng Yterby, Thụy Điển, nơi quặng này được phát hiện đầu tiên; còn scandi là từ bán đảo Scandinavia.
Do các tính năng vật lý và hóa học đặc biệt, suốt bốn thập kỷ qua, các nguyên liệu đất hiếm đã trở thành đối tượng nghiên cứu, phát minh tạo ra rất nhiều ứng dụng kỹ thuật từ macro đến micro và nano cho nhiều ngành công nghiệp khác nhau: xúc tác hóa học trong ngành lọc dầu, kiểm tra ô nhiễm trong ngành xe hơi, gốm lót cho các động cơ phản lực, nam châm vĩnh cửu cho các ứng dụng từ tính… Có nhóm cho kỹ nghệ huỳnh quang, đặc biệt là cho các màn hình tinh thể lỏng. Có nhóm cho kỹ thuật nam châm vĩnh cửu trong các thiết bị điện, điện tử, phương tiện nghe nhìn, các máy vi tính và các loại dĩa multi-gigabyte hiện nay. Có nhóm để sản xuất moment từ cực mạnh sử dụng trong kỹ thuật làm lạnh từ tính. Trong tương lai, nó sẽ còn cần cho sản xuất các thùng chứa và ống dẫn hydrogen nhiên liệu khi thế giới cạn kiệt dầu mỏ.”
Năm 1992, Đặng Tiểu Bình đã từng tuyên bố rằng : “ Trung Đông có dầu hỏa, thì Trung Quốc có đất hiếm”. Sở dĩ Trung Quốc hiện nay trở thành nguồn cung ứng đến 97% đất hiếm cho thế giới, đó là vì nhiều nước khác thấy rằng khai thác khoáng sản này tốn kém, mà lại gây nhiều tác hại cho môi trường, theo lời ông Nguyễn Thanh Giang:
“ Thực ra việc khai thác công nghiệp các quặng đất hiếm không khởi nguyên từ Trung Quốc. Từ những năm 1950, người ta đã khai thác monazit sa khoáng trên các bãi biển; nhưng khoáng vật phosphat đất hiếm này chứa nhiều thorium có tính phóng xạ, nên từ năm 1965 chuyển sang khai thác carbonat đất hiếm bastnasit tại các mạch đá vùng núi Pass, bang Colorado, Mỹ.
Về sau, phần do các phí tổn khai thác đất hiếm quá cao, phần e ngại các tác hại đối với môi trường, các nước phương Tây, mà cụ thể là Mỹ, đã đình chỉ sản xuất đất hiếm để dựa vào nguồn cung ứng dồi dào và giá rẻ đến từ Trung Quốc. Sự ỷ lại đó đã tạo điều kiện cho Trung Quốc mặc nhiên độc quyền trong lĩnh vực đất hiếm. Cho đến năm 2009, họ đã nắm tới 97% lượng đất hiếm xuất khẩu trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, thực ra trữ lượng đất hiếm Trung Quốc chỉ chiếm 1/3 trữ lượng của thế giới. Nhiều mỏ đất hiếm lớn đang được triển khai ở Úc, Canada và ở Mỹ. Nhiều nơi khác cũng có các mỏ có trữ lượng lớn như ở Nga, Ấn Độ, Brazil hay Mông Cổ. Ngày 3/1 vừa rồi, tạp chí trực tuyến Money Morning của Mỹ đưa tin một công ty khai khoáng của nước này đã phát hiện mỏ kim loại đất hiếm được cho là lớn nhất thế giới.
Cho nên Junji Nomura, người chịu trách nhiệm nghiên cứu và phát triển của hãng Panasonic nói. "Đất hiếm sẽ là một vấn đề lớn trong hai năm, nhưng trong bốn năm, vấn đề ấy sẽ qua đi.”
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia được đánh giá là có trữ lượng đất hiếm cao. Cho nên, một số nước như Nhật Bản đang quay sang Việt Nam để tìm nguồn cung ứng bổ sung.
Nhân chuyến viếng thăm Việt Nam vào tháng 10 năm ngoái của thủ tướng Naoto Kan, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thông báo Việt Nam chọn Nhật Bản là đối tác hợp tác lâu dài trong điều tra, thăm dò, khai thác và chế biến đất hiếm tại Việt Nam.
Theo tin AFP, hai công ty của Nhật là Toyota Tsusho và Sojitz đang hợp tác với Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) để chuẩn bị khai thác các mỏ đất hiếm tại đây. Dự án sẽ bắt đầu ngay sau khi các nhà lãnh đạo hai bên thỏa thuận xong các điều khoản liên quan. Một công ty khác là Sumitomo cũng đang thực hiện một cuộc khảo sát tại một mỏ đất hiếm ở tỉnh Yên Bái, Việt Nam. Công ty này hy vọng Nhật Bản sẽ được nhận những lô đất hiếm đầu tiên vào năm 2013.
Các dự án của Sumitomo và Toyota Tsusho-Sojitz dự kiến khai thác ít nhất 7.000 tấn đất hiếm mỗi năm, tương đương với 20% nhu cầu của Nhật Bản. Vốn đầu tư ban đầu dành cho hai dự án này vào khoảng 200 triệu đôla.
Còn theo tờ nhật báo The Australian, số ra ngày 4/1 vừa qua, Hàn Quốc cũng sẽ lao vào tìm kiếm đất hiếm ở bốn quốc gia gồm Việt Nam, Úc, Kyrgyzstan và Nam Phi trong năm nay.
Thật ra, hiện người ta vẫn chưa biết được đích xác trữ lượng đất hiếm của Việt Nam là bao nhiêu. Về điểm này, ông Nguyễn Thanh Giang cho biết :
“Ở Việt Nam, những công trình khảo sát sơ bộ và tìm kiếm khóang sản cho biết trữ lượng đất hiếm dự đoán khoảng 10 triệu tấn, gồm đầy đủ các nhóm trong 17 nguyên tố. Trữ lượng xác định qua thăm dò thì mới được khoảng một triệu tấn. Mỏ Đông Pao tới nay được xem là lớn nhất với trên 30 thân quặng lớn nhỏ, nằm trên địa phận xã Bản Hon, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.”
Mặt khác, một vấn đề khác được đặt ra, đó là khai thác đất hiếm sẽ mang lại những mối lợi gì cho kinh tế Việt Nam? Theo ông Nguyễn Thanh Giang :
« Giá bán các kim loại đất hiếm khá cao và ngày càng tăng. Năm 2003, giá mỗi kg kim loại lanthanium là 25 USD và cerium là 30 USD. Đất hiếm được chế biến sâu thành sản phẩm hàng hoá có giá thương mại rất cao. Năm 2008 Europium tinh khiết 99,99% giá khoảng 221.000 USD/kg, Terbium 145.000 USD/kg ...
Thập kỷ 70 thế kỷ trước, Tiệp Khắc, Ba Lan đã từng khai thác đất hiếm ở Việt Nam. Sau cơn chấn động đất hiếm do Trung Quốc gây ra, Nhật Bản, Hàn Quốc đã đàm phán để xúc tiến kế hoạch thăm dò, khai thác đất hiếm ở Việt Nam với chính phủ ta. Nhu cầu đất hiếm của Nhật khoảng 7 đến 10 nghìn tấn/năm.
Nước ta có cả hai dạng mỏ đất hiếm gồm các mạch đá kiểu Mountain Pass trong nền đá cổ ở Sơn La, Lai Châu, Yên Bái và trong các dải cát đen ven biển miền Trung.
Việc khai thác đất hiếm ở Việt Nam không gây vấn đề gay cấn như đối với khai thác bauxite, nhất là đối với việc khai thác các mạch quặng trong nền đá cổ vì diện tích các mỏ khai thác sẽ không rộng lớn như đối với bauxite. Vả chăng, vấn đề gay cấn cơ bản đối với khai thác bauxite lại nằm ở chỗ : Sao lại đưa Trung Quốc vào Tây Nguyên !
Không nên kỳ vọng nhiều vào việc đóng góp của đất hiếm vào nền kinh tế Việt Nam, nhưng đấy cũng không phải là nguồn lợi quá nhỏ. Vả chăng ý nghĩa của nó còn nằm ở một vài lĩnh vực khác nữa. »
Hiện giờ Việt Nam vẫn còn thiếu công nghệ chế biến hiện đại, mà cũng chưa có đủ vốn đề đầu tư một cách quy mô, cho nên chỉ có thể hợp tác khai thác với các nước có công nghệ tiên tiến, để dần dần tiếp thu công nghệ cần thiết cho việc phát triển ngành công nghiệp đất hiếm.
Khai thác, chế biến đất hiếm có nguy cơ gây ô nhiễm lớn hơn nhiều so với các loại khoáng sản khác như than đá, dầu mỏ vì chế biến đất hiếm phải dùng nhiều hóa chất ảnh hưởng đến môi trường. Ngoài ra, trong quặng đất hiếm có khoáng chất mang tính phóng xạ với cường độ cao hơn các loại khoáng sản khác. Tức là khai thác, chế biến đất hiếm chứa đựng hai nguy cơ ô nhiễm : ô nhiễm của hóa chất và ô nhiễm phóng xạ từ đất hiếm. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải bảo vệ sức khỏe của công nhân khai thác, sức khoẻ của người dân trong khu vực mỏ và hoàn nguyên môi trường sau khai thác.
Ngay cả Trung Quốc nay cũng chuẩn bị ban hành những quy định mới để chống nạn ô nhiễm môi trường do khai thác đất hiếm. Theo tờ China Daily, số ra vào đầu tháng Giêng, các công ty khai thác đất hiếm của Trung Quốc sẽ được lệnh là trong thời hạn từ 2 đến 3 năm phải tuân thủ các chuẩn mực mới về ô nhiễm môi trường. Cụ thể theo những quy định sẽ được ban hành sau ngày Tết Nguyên Đán 3/2, nước thải được sử dụng trong khai thác đất hiếm không được chứa quá 15 mg azote ammoniacal/lít so với 25 mg như hiện nay. Các chất phóng xạ và phosphore cũng không được vượt quá những mức quy định.
Việc Trung Quốc hạn chế xuất khẩu đất hiếm thật ra cũng chính là nhằm tập trung các nhà sản xuất lại, để kiểm soát tốt hơn các chất thải gây ô nhiễm, như vậy, những nhà sản xuất nhỏ gây nhiễm nhất sẽ phải đóng cửa. Hàng trăm nhà máy nhỏ sản xuất đất hiếm ở thành phố Baotou, vùng Nội Mông, Trung Quốc, cho tới nay vẫn đổ các chất thải này xuống Hoàng Hà một cách vô tội vạ, bởi vì chưa có những quy định chặt chẽ về việc này.
Một báo cáo vào năm 2005 đã báo động là việc khai thác đất hiếm ở Baotou đã khiến con sông này bị ô nhiễm phóng xạ. Báo cáo viết : « Tại Baotou, nơi mà gần 150 triệu người sống phụ thuộc vào nguồn cung cấp nước của Hoàng Hà, toàn bộ cá đều chết. Nhiều người độ tuổi 30 làm việc gần các mỏ đất hiếm đã chết vì ung thư, rất có thể là do nhiễm phóng xạ ».
Những gì đã xảy ra qua vụ Vedan gây ô nhiễm sông Thị Vải đã cho chúng ta thấy là ở Việt Nam, nguy cơ ô nhiễm thường không được ngăn chận trưóc, đợi đến khi xảy ra rồi mới xử lý, thì lúc đó tác hại đã lan rộng rồi. Đất hiếm mở ra những triển vọng mới cho kinh tế Việt Nam, nhưng cũng đặt ra những yêu cầu về bảo vệ môi trường và sức khoẻ người dân. Dung hòa hai điều này là một thách đố lớn đối với chính phủ Việt Nam.
Đài phát thanh quốc tế Pháp RFI
Thứ hai 24 Tháng Giêng 2011
|