HÒA GIẢI VÀ HÒA HỢP DÂN TỘC Tôi không thích bài thơ của Lý Thường Kiệt: “ Nam quốc sơn hà nam đế cư …”. Tại sao “ nam quốc sơn hà ” mà chỉ có “ nam đế cư ” ? Phải là “ nam nhân cư ” chứ ! Thế mà người ta cứ hùa nhau suy tôn đây là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam. Không phải thế! Không phải “ tại thiên thư ” đã “ tiệt nhiên định phận ” rằng nước Nam này chỉ để cho vua Nam ở. Không thể “ tại Hiến pháp ” mà “ tiệt nhiên định phận ” rằng đất nước này, nhân dân này cứ nhất thiết đời đời được/chịu sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi như vậy sẽ vô lý lắm, như vậy, muốn được xem là yêu nước tất phải yêu chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa xã hội bị quy là phản quốc ! Đối với tôi, đoạn hùng văn mở đầu Bình Ngô Đại Cáo do Nguyễn Trãi viết năm 1427, sau đại thắng quân Minh dưứi đây mới xúng đáng là Bản Tuyên ngôn Độc lập cổ của Việt Nam: Nhân nghĩa chi cử yếu tại an dân Điếu phạt vi sư mạc tiên khử bạo Như ngã Đại Việt chi quốc Thực vi văn hiến chi bang Sơn xuyên chi cương vực ký thù Bắc Nam chi phong tục diệc dị Bản dịch quốc ngữ đoạn hùng văn trên được lưu truyền rộng rãi là: “ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác ”. Hai câu: “ Sơn hà cương vực đã chia. Phong tục Bắc Nam cũng khác ” làm cho nhiều người hiểu là nói về sự phong phú, đa dạng của tổ quốc Việt Nam: có núi có sông chia cắt, có miền Bắc miền Nam khác nhau về phong tục. Hiểu như vậy, lại liên hệ với truyền thuyết người xuống biển, kẻ lên rừng. ( Vua Lạc Long Quân bảo bà Âu Cơ: “ Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó ”, rồi chia tay, năm chục người con theo mẹ lên núi, năm chục người theo cha xuống biển), có người cho rằng mầm ly gián, mối bất hòa dân tộc của chúng ta đã nằm trong máu thịt, được kiếp kiếp truyền đời. Định kiến ấy không đúng. Thật ra, hai câu: “ Sơn xuyên chi cương vực ký thù. Bắc Nam chi phong tục diệc dị ” phải dịch sao cho được hiểu đúng là : Đất nước Việt Nam đã được cách ngăn rõ ràng khỏi Trung Quốc bởi các dãy núi; phong tục ở nước Việt ( Nam ) cũng khác biệt hẳn với Trung Quốc ( Bắc ). ( Chữ “ diệc ” nghĩa là “ cũng theo ”. “ Diệc dị ” nghĩa là phong tục cũng theo sự ngăn chia lãnh thổ mà khác nhau giữa Việt Nam, Trung Quốc ). Hiểu đúng như vậy mới thấy được cha ông ta đã khẳng định Việt Nam là một quốc gia thống nhất, độc lập rõ ràng với Trung Quốc. Lịch sử ghi rằng đời vua đầu tiên nước ta là Hùng Vương. Vua Hùng là cháu nội của Kinh Dương Vương thuộc dòng dõi Bách Việt đã từng sinh sống ở các khu vực từ phía nam sông Dương Tử Trung Quốc đến bắc Trung Bộ Việt Nam ngày nay. Nước Văn Lang qua những quốc hiệu Vân Lang, Âu Lạc, Nam Việt, Giao Chỉ, An Nam, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, Việt Nam ….đã không ngừng mở rộng bờ cõi về phía nam hòa hợp cùng các chủng tộc Indonesien dọc theo giải Trường Sơn. Do vậy, Việt Nam là một quốc gia đa chủng tộc, bao gồm tới 54 dân tộc xuất phát từ các tộc người Nam Việt, Lạc Việt …ở phía bắc và các tộc người thuộc nhóm Chàm, nhóm Môn-Khmer … ở phía nam. Nhưng, suốt nhiều thế kỷ qua, cả thế giới và trong nội hạt lãnh thổ đều thừa nhận giải đất chữ S kéo dài từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mâu này là của chung một sắc tộc, sắc tộc Kinh. Tiếng nói chung là tiếng Kinh. Lịch sử chung là lịch sử của người Kinh. Văn hóa chính thống Việt Nam là văn hóa Kinh. Hiến pháp và luật pháp Việt Nam là luật pháp Kinh…. Trải bao đời, 54 dân tộc ở đây cùng sống thuận hòa, cùng chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập, cùng xây dựng đất nước từ các thời đại đồ đồng, đồ đá đến văn minh công nghiệp … Điều đó chứng tỏ truyền thống hòa hợp dân tộc của nhân dân Việt Nam hết sức cao. Tinh thần hòa hợp, hòa giải của nhân dân Việt Nam thật là mạnh mẽ. Trịnh Nguyễn phân tranh là hậu quả tai hại những âm mưu thoán đoạt quyền thế của các vua chúa, nhưng vượt lên tất cả, bao trùm tất cả là lòng bao dung dân tộc Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: khi khuyên Trịnh Kiểm tận trung phò Lê, lúc chỉ dường cho Nguyễn Hoàng “ Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân ”. Đến thời đất nước bị cắt đôi ngang chừng vĩ tuyến 17, bên này thúc giục “ Lấp sông Bến Hải, tiến quân ra Bắc ”, bên kia hô hào “ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào ”, nhưng ngay sau 30 tháng 4 năm 1975, như là hết sức vô tư, cứ âm thầm mà ào ạt, không ai ngăn nổi, “ Miền Nam háo hức nhận họ, Miền Bắc hồ hởi nhận hàng ”. Lịch sử thì cứ ngập tràn máu xương bởi đất nước có quá nhiều anh hùng ham “ Giãi thây trăm họ làm công một người ” nhưng nhân dân Việt Nam vốn rất yêu chuông yên bình và sẵn sàng hòa hợp, hòa giải. Hẳn nhiều người thấy thích thú với phát hiện của nhà nghiên cứu Trần Gia Phụng khi ông viết: “ Là người Việt Nam, ai cũng yêu chuộng hòa bình. Từ thuở xa xưa, khát vọng hòa bình của người Việt Nam thể hiện rõ qua những địa danh khắp nước. Ví dụ Hòa Bình, Thái Bình, Bắc Ninh, Quảng Yên, Ninh Bình, Hưng Yên, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Khánh Hòa, Tuy Hòa, Bình Thuận, Biên Hòa, Bình Dương ... Ít có dân tộc nào trên toàn cầu mà địa danh mang tính chất hòa bình như Việt Nam. Đặc biệt, nhịp cầu nối liền bắc nam khi đất nước bị chia hai năm 1954 cũng có một cái tên rất hòa bình, là cầu Hiền Lương ( sông Bến Hải, Quảng Trị ) ”. Thấy cho được cái thực tế tiềm năng đó để mà tự hào, cũng để mà tin tưởng, đặng giữ vững truyền thống. Thật vây, không phải dân tộc nào trên thế giới cũng có được cái khả năng hòa giải, hòa hợp mạnh mẽ đến nhường ấy đâu. Nhìn ngay sang anh bạn láng giềng phương bắc đấy thôi. Đâu chỉ ở thời Xuân Thu Chiến Quốc mà đến triều đại Tần Thủy Hoàng binh hùng tướng mạnh đến vậy mà vẫn cứ phải ra sức xây cho cao hơn, chắc hơn, dài hơn bức Vạn Lý Trường Thành để lưu truyền đến nay một kỳ quan là chứng tích vĩ đại của mối bất hòa trong lòng Trung Quốc. Di chứng bất hòa kia còn tồn tại đến ngày nay, biểu hiện đâu đó ở Tây Tạng, Tân Cương …Hiển hiện hơn là ở cái eo biển Đài Loan. Trung Quốc khổng lồ đến thế, được xây dựng suốt hơn nửa thế kỷ trong một chế độ xã hội “ tốt đẹp nhất lịch sử nhân loại ” – chế độ Xã hội Chủ nghĩa – thế mà muốn thuyết phục để hòa giải hòa hợp với một mảnh tổ quốc bé con con - đảo Đài Loan – mà cứ phải gầm ghè mãi; hết chĩa tên lửa sang nhau lại dọa ném bom nguyên tử ! Đối với Việt Nam chúng ta, không phải chỉ có quần chúng quảng đại, ngay trong số những tướng lĩnh, những quan trên cũng có những mảnh tâm hồn nhân ái, lúc bị ức chế, lúc ló rạng . Tôi cứ ưu tư mãi về đoạn kể sau đây của cụ Nguyễn văn Trấn trong cuốn “ Viết cho Mẹ và cho Quốc hội ” ( trang 264 ) : “ Thủ tướng Phạm văn Đồng vào Sài Gòn một ngày đầu hậu chiến. Về Bắc, ông nói tình hình bằng một câu buồn: - “ C’est regrettable ”. Đáng tiếc! Sao ông là Thủ tướng mà ông nói lần này là lần thứ hai: “Ce n’est pas moi qui décide ”. Người quyết định không phải là tôi! ”. Ba mươi năm sau, một vị thủ tướng CHXHCN Việt Nam khác, ông Võ văn Kiệt, cũng thấy “ đáng tiếc ”. Khi nói về Chiến thắng 30 Tháng Tư, ông sám hối nhìn nhận “ Có triệu người vui và cũng có triệu người buồn ” ! Những sám hối muộn mằn kia hẳn có liên can đến lời ta thán sau đây của “ Ông già Chợ Đệm ” khi ông ám chỉ Lê Duẩn: “ Có nhiều vụ việc, dù là quan hệ đến quốc gia mà cũng chỉ do một người định đoạt. Vụ xua binh đi Campuchia được quyết bởi mấy người ? Thậm chí sự thống nhất đất nước này là do ai bầy đặt ?” ( trang 266 sách vừa nêu ). Giá mà ta thấm nhiễm được sâu sắc nỗi lòng của quảng đại Việt Nam để hạn chế được tối đa điều “đáng tiếc ” đã xẩy ra quá lâu dài, quá thảm khốc ! Hay ít ra, trong cái ngày được tưng bừng hoan ca: “ Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng ” ấy, những người lãnh đạo như ông Kiệt biết nhắc nhủ nhau mở lòng ra với những số phận của hàng “ triệu người buồn ” kia. Đằng này ! Hàng loạt nhà tù trắng trợn, nhà tù trá hình được dựng lên để cùm kẹp, để cải tạo, để giáo dục, để chỉnh huấn … với đằng đẵng thời gian và muôn vàn phương thức đầy ải. Cho đến con cháu, họ hàng của những người tù, những “ cải tạo viên ” cũng bị phân biệt đối xử, bị tước bỏ bớt nhân quyền so với cái nhân quyền chung của dân Việt Nam vốn đã như “ miếng da lừa ”. Đến nỗi hàng vạn, hàng triệu người phải cắn môi, gạt nước mắt giã từ bè bạn, chia tay họ hàng, từ bỏ tài sản, rời bỏ quê hương đi biệt xứ. Ta có thể không bằng lòng với sự “ giân cá chém thớt ” khá tàn nhẫn, nhưng không thể không ngậm ngùi xót xa khi đọc những dòng này: “ Toàn thắng rồi, tổ quốc xã hội chủ nghĩa quên phắt cam kết thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc. Tổ quốc bỏ tù và hạ nhục hàng triệu người. Tổ quốc đánh tư sản, tống cổ con cái “ ngụy quân ngụy quyền” ra khỏi trường học và lùa đi vùng kinh tế mới. Tổ quốc khống chế và hăm dọa bằng công an thành, công an tỉnh, công an huyện, công an phường. Biết dân chúng không còn chịu đựng được nữa và muốn bỏ nước ra đi, tổ quốc đứng ra tổ chức vượt biên bán chính thức để lấy tiền chuộc mạng những người muốn chạy trốn nanh vuốt của mình. Tổ quốc hành động như bọn giặc cướp. Đến khi bị dư luận thế giới lên án dữ dội vì hành động bỉ ổi này, tổ quốc dẹp luôn đợt vượt biên bán chính thức và dĩ nhiên không trả lại tiền. Tổ quốc đểu cáng và lật lọng. Đối với những người ra đi, tổ quốc là sóng gió, hải tặc, là cái chết trong bụng cá, may mắn hơn, là những ngày ê chề trong những trại tập trung trước khi tìm được một quê hương mới. Tổ quốc là một dĩ vãng cần quên đi ”. ( Nguyễn Gia Kiểng, trong sách “ Tổ quốc ăn năn ” ). Hiệp định Paris 1973 đã ghi: “ … thực hiện hoà giải hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia ” ( Điều 11 ). Vậy mà những người cộng sản chiến thắng đã quản chế, giam giữ hàng trăm ngàn nhân viên hành chính, chuyên gia kỹ thuật, nhà khoa học xã hội, chính trị …, kể cả những người không hề cầm súng và gọi tất cả là ngụy quân, ngụy quyền. Có người chịu tù đầy đằng đẵng suốt 17 năm. Chẳng những thế, con cái, anh em, họ hàng của họ cũng bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử, bị ngáng trở học hành, bị gây khó dễ trong mưu sinh. Hàng vạn người thuộc giới tư sản và gia đình “ ngụy ” bị vứt vạ vật lên các vùng kinh tế mới. Thật là không giống ai. - Không giống thiên hạ : Sau trận Gettinsburg 1863, tổng thống Lincoln cúi đầu ngậm ngùi : “ Những người lính Miền Nam hay Miền Bắc chết tại nơi đây đều chết cho đất nước Hoa Kỳ ”. Kết thúc nội chiến Nam-Bắc 1860 – 1865, binh sỹ bại trận Miền Nam Hoa Kỳ được thoải mái về quê, lại đựoc cấp ngựa, cấp lương thực để có thể sinh sống và tái tạo cuộc đời. Các sỹ quan bại trận vẫn được cho giữ gươm. Năm 1989, bức tường Berlin của Đông Đức bị sụp đổ nhưng Tổng Bí thư Erik Honecker dù bị kết nhiều tội vẫn không bị đầy đọa. Chính phủ Tây Đức vẫn đổ ra nhiều ngàn tỷ nuôi dân Đông Đức và vực Đông Đức vượt thoát tình trạng nghèo và kém phát triển. Sau Đại chiến Thế giới II, Hoa Kỳ và Đồng minh chỉ đưa bọn thủ lính Quốc xã và Phát xít ra tòa án Quốc tế, nhưng lại lập tức bỏ tiền viện trợ tái thiết cho hai kẻ cựu thù Nhật và Đức để chỉ trong vòng vài thập niên, hai nước này cúng hùng mạnh ngang bằng Hoa Kỳ. - Không giống cha ông : Ngay cả đối với bọn ngoại xâm như binh sỹ Nguyên Mông và bọn giặc Minh mà sau khi đánh bại chúng, các vua quan nhà Trần, nhà Lê vẫn cung cấp lương thực, thuyền bè cho họ trở về quê quán. Cái sự độc ác đã gây nên thảm cảnh và hận thù đằng đẵng sau cuộc chiến 1975 hoàn toàn không do nhân dân Việt Nam gây nên. Bản tính nhân dân ta vốn không như vậy. Cũng không phải tất cả những người cộng sản đều muốn như vậy. Tội ác ấy chỉ có thể gây nên bởi những lãnh tụ cộng sản kiểu như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ … Cho nên tôi rất mủi lòng nhưng không đồng ý với Nguyễn Gia Kiểng khi ông chua chát gắt gao : “ Tổ quốc là một dĩ vãng cần quên đi ”. Tôi cũng không đồng ý với những người lãnh đạo cộng sản khi kêu gọi:“ Hãy gác lại quá khứ ”, Làm sao có thể quên quá khứ được. Cũng không thể gác lại quá khứ. Có điều, chúng ta cần nhắc nhở nhau cái triết lý sống tích cực này: Quá khứ rất không đáng kể so với hiện tại, hiện tại càng không đáng kể so với tương lai. Tôi muốn chúng ta hãy học cha ông trong cách xử thế thực dụng lành mạnh này: “ Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối. Muộn chất đầy hãy thổi làm cơm ”. ( Cung oán ngâm khúc ). Hãy biến cái tủi buồn, đau xót của quá khứ lầm lạc thành sức mạnh phản tỉnh phi thường nâng toàn dân tộc bay lên hôm nay. Không quên quá khứ, cũng không thể chỉ gác lại quá khứ mà hãy biết vượt hẳn lên trên quá khứ. Vượt hẳn lên trên quá khứ, đoạn tuyệt hẳn với lỗi lầm quá khứ, đặng mà tiến tới hòa giải hòa hợp dân tộc. Hòa hợp để đại đoàn kết, để có sức mạnh của đại khối. Hòa hợp giữa người Kinh với các dân tộc ít người, giữa các tôn giáo, giữa tôn giáo với phi tôn giáo, giữa Đảng với dân, giữa nông thôn với thành thị, giữa miền ngược với miền xuôi, giữa giầu với nghèo. Nhưng nổi cộm nhất, thiết yếu nhất hiện nay là hòa hợp giữa 83 triệu người trong nước với 3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài.. Muốn hòa hợp phải hòa giải được với nhau. Muốn hòa giải thì tất cả đều phải biết sám hối, biết tự soi xét, tự kiểm điểm để thành thật nhận cho được những lỗi lầm đau xót quá khứ rồi từ đấy biết tri bỉ, tri kỷ. Phía cộng sản do du nhập và làm nô lệ cho một thứ ý thức hệ phương Tây ngoại lai - chủ nghĩa Mác Lênin - nên đã gây nhiều thảm họa cho đất nước qua những cuộc chiến liên miên; đã gây nhiều tội ác với các bộ phận dân tộc qua Cải cách ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm, Xét lại chống Đảng, Tiêu diệt công thương tư doanh …. Cộng sản ngu tín cuồng dại có nhiều tội lỗi đã đành, nhưng sao có thể nói bọn chống cộng cực đoan điên cuồng không có tội đươc. Ai lê máy chém đi khắp nơi chặt đầu cả những người chỉ có cảm tình với cộng sản ? Ai hô hào lấp sông Bến Hải tiến quân ra Bắc ? Ai đưa quân đội ngoại quốc vào rải chất độc khắp núi rừng Miền Nam, rải thảm B52, bom tạ, bom tấn … vào cả nhà thương, trường học ở Miền Bắc và tàn sát sạch sanh dân lành ở Mỹ Lai, ở Sơn Tịnh ? Do hận thù mất trí, những kẻ chống cộng cực đoan cho đến bây bây giờ vẫn sẵn sàng sắn tay chọc phá để khống chế đất nước, kìm hãm nhân dân trong đói nghèo ( với mong muốn nhân dân sẽ nổi dậy chém giết, lật đổ cái bọn người đã gây nên tội ác hòng trả thù truất hận cho họ ! ). Họ chống bỏ cấm vận, chống bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, chống Việt Nam vào WTO, chống Việt Nam trở thành thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, chống cả những ca sỹ mang tiếng hát quê hương đến với họ….! Họ độc ác như những kẻ vì muốn giết “ con bống đáng ghét ” mà bỏ thuốc độc vào giếng để có thể tàn hại cả nhà, cả xóm, cả làng ! Đối với cụ Hồ, phía này thì tâng bốc lên như thánh như thần. Cụ đã chân thành: “ Tôi không có tư tưởng gì cả . Tôi đã có Mác-Lênin, Stalin và Mao Trạch Đông nghĩ hộ ” ( Hồ chủ tịch nói với ký giả ngoại quốc trong kỳ Đại hội Đảng II ). Thế mà hết năm này tháng khác, người ta mở đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để kiếm hàng trăm hàng nghìn tỷ chia nhau đánh chén. Họ ra rả suốt năm, suốt tháng, suốt ngày, suốt đêm nói tư tưởng, nói đạo đức tác phong Hồ Chí Minh. Quá lạm dụng đến mức không những không mấy tác dụng tốt mà còn gây phản cảm. ( Thực ra, đây chỉ là biểu hiện của sự kém tài và vô trách nhiệm của những người làm công tác lý luận, văn hoá tư tưởng. Họ không nghĩ ra được cái gì sâu sắc hơn, mới hơn, thiết thực hơn nên đành cứ tùy tiện nhai đi nhai lại mãi những thứ mà họ tự cho rằng nói mấy cũng không thừa, tâng bốc mấy, trước mắt, cũng không bị quy kết nọ kia ). Muốn cho lớp trẻ tin được, nghe được, noi gương được thì đừng bôi vẽ cụ Hồ thành ông thần, ông thánh ( kiểu như Tố Hữu: “ Mắt sáng quắc, tay xanh lòe mã tấu ” ), mà hãy nói đúng mực rằng Cụ là một con người mang yếu tố thánh nhân. Tài trí của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc là hơn người, là siêu viêt. Đạo đức tác phong của chủ tịch Hồ Chí Minh nói chung rất đáng quý trọng. Tuy nhiên, ví là con người nên Cụ cũng có hỷ, nộ, ái ố, dục. Việc Cụ đã từng cưới một phụ nữ Trung Quốc xinh xắn tên là Tăng Tuyết Minh làm vợ và từng có một con trai với một phụ nữ Tày Cao Bằng trẻ đẹp tên là Nông thị Xuân là có thật thì sao không thẳng thắn bạch hóa rõ ràng. Thời đại thông tin, không chỉ có thông tin chính thống và truyền khẩu mà đầy giẫy trên báo chí nước ngoài, trên các trang web. Làm sao mà bưng bít nổi. Đã là người thì có xấu, có tốt, có sai, có đúng. Cụ Hồ là bậc tài trí hơn người với đạo đức tác phong rất đáng nể trọng nhưng không phải không có thói xấu, không có lúc sai, thậm chí có tội. Không thể nói Cải cách ruộng đất, Đấu tranh Chính trị, Nhân văn Giai phẩm, Xét lại Chống Đảng .. đều chỉ là sai lầm của Đảng mà trong đó không có cụ Hồ là người chịu trách nhiệm chính. Tuy nhiên, những sai lầm ấy có khi vượt khỏi tầm kiểm soát của Cụ. Tôi hoàn toàn tin rằng khi biết bà Nguyễn thị Năm bị tử hình, Cụ đã khóc. Nhưng, đấy là sự trớ trêu của lịch sử ! Vậy mà, phía bên kia nhiều khi tỏ ra rất quá tệ đối với chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ không chỉ phê phán, chê bai, phủ nhận sạch trơn mà nhiều kẻ còn lăng nhục thậm tệ. Làm sao lại có thể mở mồm ra mà réo lên: Hồ Việt gian, Hồ dâm tặc … được. Thật là cực kỳ vô văn hóa, cực kỳ hỗn xược, cực kỳ du côn. Người ta có thể tiếc nuối xót xa rằng sao cách mạng Việt Nam không theo con đường Phan Châu Trinh để đỡ rơi xương đổ máu, nhưng con đường Nguyễn Ái Quốc tính đến năm 1954 cũng có cái ưu việt của nó chứ. Nó không chỉ giải quyết viêc đánh đuổi ngoại xâm gọn gàng hơn mà còn là ngọn cờ đầu phất lên cho cả một phong trào giải phóng thuộc địa trên toàn cầu. Dẫu sao, như ai đó từng nói: Mác vốn nhân hậu và là một kỳ tài, nhưng giá thế giới không có Mác thì hơn. Tôi nói: “ Cụ Hồ thật là tài trí, đảng Cộng sản Việt Nam thật là oanh liệt, nhưng giá Tổ quốc này không có đảng CSVN thì hơn ”. Sau kháng chiến chống Pháp, cuộc chiến Nam Bắc huynh đệ tương tàn thực sự là tội lỗi rất đáng căm giận đối với tất cả nhũng người cầm đầu ở cả hai phía. Bây giờ truy nguyên ra, Mỹ thì bảo do ta tấn công tàu Mađốc trước. Ta thì bảo Mỹ đã dồn ta vào thế không đánh chúng không được. Nhưng, lẽ ra, biết mình là nước vừa nhỏ, vừa yếu thì phải tìm mọi cách để không phải đương đầu với cường quốc số một thế giới mới phải. Nhiều nước làm được như vậy nên vừa không phải đánh nhau liên miên mà năm 1945 còn kém xa ta nhưng đã xây dựng được đất nước mạnh giầu hơn ta nhiều lần. Trong bài tựa cho cuốn “ Vạn kiếp tông bí truyền thư ” của Trần Quốc Tuấn, Nhân Huệ vương Khánh Dư viết : “ Phàm người giỏi cầm quân thì không cần bầy trận, người giỏi bầy trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết ”. Có bốn loại tướng tài, ta đánh thắng được Mỹ thì kế sách giữ nước cùng lắm chỉ thuộc hạng xoàng, hạng ba. Mà nghĩ cho cùng, “ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào ” để làm gì nhỉ ? Đánh cho Mỹ cút rồi lại không thể không rước Mỹ trở lại. Trong khi đó, đối với nhân dân Việt Nam thì Tổng thống Mỹ nắm tay ông Thiệu, ông Kỳ hay nắm tay ông Duẩn, ông Mạnh cũng thế thế cả. Xã hội Việt Nam ngày nay chẳng hơn gì Sài Gòn dưới quyền “ Mỹ Ngụy ”. Tham nhũng tràn lan hơn, dân chúng nghèo khổ hơn, xã hội dối trá hơn, học đường nhiều tệ đoan hơn, bệnh viện thiếu thốn và tồi tàn hơn, đường xá bụi bậm, nhầy nhụa hơn, tai nạn giao thông thảm khốc hơn … Cho nên, chẳng có gì đáng kiêu hãnh cả. Thủ tướng Võ văn Kiệt như đã biết mở lòng ra mà ngậm ngùi: “ Có triệu người vui và cũng có triệu người buồn ” ! Sự thực là, không ai nên vui cả. Không ai được vui cả. Tất cả những người đã từng đứng trên hai chiến tuyến đều có lỗi với nhân dân, với đất nước, với những người đã hy sinh, kẻ it, người nhiều. Trong đó có cả người đang ngồi viết những dòng này. Hãy tự rửa sạch mọi tôi lỗi đi mà quỳ trước anh linh dân tộc. Từ bỏ cái ngông cuồng cộng sản đi, trút hẳn lòng hận thù chống cộng hiểm độc đi, đặng mà hòa giải . Hãy dứt khoát quẳng cái ách công sản đã chót quàng lên cổ dân tộc đi. Cắt hẳn cái đuôi “ định hướng xã hội chủ nghĩa ” đi để khi hòa hợp dân tộc không còn mối lắp ghép khiên cưỡng giữa anh yêu chủ nghĩa xã hội, tôi chông chủ nghĩa xã hội nữa. Hình như đảng CSVN đang chuẩn bị đổi tên. Phải chăng đây là một hành động cụ thể tạo bước tiến tới hòa giải và hòa hợp dân tộc. Cụ Nguyễn Hộ, một nhà lãnh đạo cộng sản kỳ cựu, khi bàn về hòa giải hòa hợp dân tộc đã tỏ ra thấu đáo khi viết : “Chuyên chế độc tài đã từng bị lịch sử lên án, hoàn toàn không hề là ước mơ, niềm hy vọng của nhân dân quần chúng và tất nhiên nó không có sức thuyết phục; nhưng tại sao lại dựa vào nó để thực hiện hòa giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc ? Cơ sở cốt lõi của vấn đề phải là: dân chủ, tự do và bình đẳng thật sự. Vì vậy, chừng nào còn chưa thiết lập được nền dân chủ tự do đúng nghĩa của nó ở Việt Nam thì chừng ấy vẫn chưa xóa được mặc cảm, thành kiến,...chưa có thể hòa giải, hoà hợp dân tộc được. Nếu chỉ bằng những khẩu hiệu suông hay bằng những chiến thuật kinh tế cụ thể thì sứ mạng hoà giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc sẽ khó hoàn thành ”. Nói thì dễ nhưng làm sẽ rất khó. Những yêu cầu trên đòi hỏi sự thoát xác của cả hai bên. Đức Thích Ca Mầu Ni đã nói: “ Thắng một vạn quân không bằng chiến thắng bản thân ”. Sẽ khó khăn lắm, vật vã đau đớn lắm. Nhưng tôi mong và tôi tin. Tôi tin nỗi trắc ẩn của nguyên thủ tướng Võ văn Kiệt khi ông thốt lên : “ Phải xác định tổ quốc là của mình, dân tộc là của mình, quốc gia là của mình – của mọi người, không của riêng ai cả. Không riêng của người cộng sản, không riêng của bất cứ một tôn giáo, phe phái nào ”, “ Người cộng sản chưa thể nói cái yêu nước của mình cao hơn hoặc nói người ta không chịu chủ nghĩa xã hội thì không phải người ta giảm lòng yêu nước của người ta ”, “ Hơn 30 năm rồi, năm nay nữa là 32 năm, thì không có lý do gì mà có thể là giữa chúng ta với nhau không hòa giải được. Vì kẻ thù của Việt Nam là Pháp trước đây, kẻ thù của Việt Nam là Mỹ sau này, kẻ thù của Việt Nam là Trung Quốc trong thời đánh biên giới Việt Bắc, chúng ta cũng khép lại quá khứ được thì tại sao giữa chúng ta với chúng ta lại không khép lại quá khứ ấy, mà chúng ta cứ đố kỵ với nhau, rồi có những sự chống đối ” …. Tôi tin vào lời trần tình của chủ tịch Nguyễn Minh Triết: “ Trên đường đến đây ( Quận Cam ), tôi thấy một số ít bà con người Việt tụ tập, phản đối. Nói thật, tôi muốn xuống bắt tay họ, tôi muốn mời họ dự cuộc gặp ngày hôm nay, để chúng ta cùng nói với nhau những lời chân thành, thẳng thắn ”. Tôi tin tất cả những câu nói sau đây đều xuất phát từ trái tim ông Nguyễn Minh Triết: “ Sống trên đời để làm gì ? Các bạn có đặt câu hỏi đó không ? Sống trên đời không phải để thù hận mà chính là để yêu thương nhau. Một lần nữa tôi mong bà con mình, hãy vì quê hương đất nước, gác bỏ nhũng khác biệt của mình, hãy đoàn kết lại, cùng nhau xây dựng mẹ hiền Việt Nam, đất nước Việt Nam giầu mạnh, hùng cường ”, “ Trong gia đinh, bạn bè có lúc cũng còn giận nhau, nhưng chúng ta hãy gác lại tất cả để đoàn kết xây dựng một nước Việt Nam vững mạnh, hùng cường, sánh vai cùng bạn bè thế giới ” …. Tôi càng tin hơn khi nghe những cựu chiến binh bên kia trận tuyến có sự nhìn nhận phân minh : “ Tôi không tranh luận, tôi chỉ xin mượn diễn đàn để nói lên những ý nghĩ riêng tư của tôi mà thôi. Tôi từng là một người lính của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, sau 75 tôi cũng đã bị cầm tù nhiều năm ở Miền Bắc. Tất nhiên, tôi không thích người cộng sản. Tuy nhiên, có một số người cộng sản mà tôi rất kính trọng bởi họ có tấm lòng nhân đạo, biết tha thứ, biết dẹp bỏ những thù hận riêng tư vì lợi ích chung của quốc gia. Họ thật lòng mong muốn hòa hợp, hòa giải dân tộc để tạo ra một quốc gia phồn vinh và yêu thương nhau ”. ( Phát biểu của Văn Lý, Fall Church, USA trên diễn đàn BBC ). Hòa giải hòa hợp dân tộc là sự nghiệp thật là thiêng liêng và cao cả. Trên truyền hình Pháp tối 15 tháng 5 năm 2007, trong buổi chuyển giao quyền lực cho ông Sarkozy, ngồi trước lá cờ Pháp và EU, vẻ mặt tươi sáng và nhẹ nhõm, cựu tổng thổng Jacques Chirac nói: “ Một đất nước là một gia đình. Mối liên hệ đoàn kết chúng ta là tài sản quý giá nhất của chúng ta ”. Không biết từ bao giờ và trong tình huống nào, nhà văn Romain Rolland đã kêu goi tha thiết, như là nói với chúng ta : “ Hỡi các anh em! Chúng ta hãy xích lại gần nhau, hãy quên đi tất cả những gì ngăn cách chúng ta. Hãy chỉ nghĩ đến những đau thương mà chúng ta đều phải hứng chịu. Không có kẻ thù. Không có người độc ác. Chỉ có những người khốn khổ và chỉ có một thứ hạnh phúc trường tồn là chúng ta hãy hiểu nhau để yêu nhau ” Sau khi đi dự Hội nghị Địa chất Quốc tế lần thứ 28 ở Washington D.C. về, trong bài “ Một buổi tối ở Nữu Ước ” đăng báo Nhân Dân cách đây gần hai chục năm, tôi đã khuyến nghị một chủ trương: “ Những người Việt Nam bỏ nước ra đi sẽ đem lại bao nhiêu phúc, bao nhiêu họa cho dân tộc. Điều này chưa được thảo luận kỹ và cũng chưa nên khẳng định một cách hàm hồ. Chỉ biết: Không phúc nào không có khả năng biến thành họa, không cái họa nào không ủ mầm nảy sinh ra cái phúc. Chỉ biết, ngày nay nếu mẫn cảm một chút, thì đêm đêm ta không thể không nghe trái tim Việt Nam còn đập đâu tận bên kia Thái Bình Dương, và trong những cơn gió đang thổi trên tất cả các kinh tuyến địa cầu đều có hơi thở ấm của người Việt Nam. Ngày nay, khi nghĩ về Việt Nam, chúng ta không được chỉ nghĩ đến 54 dân tộc đang sống trên dải đất chữ S ở Đông Nam Á mà phải bao gồm cả nhiều cộng đồng người Việt Nam đang sống khắp đó đây, ngoài lãnh thổ. Họ là máu của máu chúng ta, là thịt của thịt chúng ta Thật vậy, vấn đề " đồng bào ta ở nước ngoài " phải được ghi nhận là một đặc điểm mới của Tổ quốc, của cách mạng Việt Nam. Nó chưa hề xuất hiện trong các giai đoạn lịch sử trước đây. Đây là vấn đề vừa phát sinh từ sau 1975 và nó sẽ còn phát triển lâu dài, phức tạp. Bởi vậy, nó phải được quan tâm đúng mức, như một trong những vấn đề quốc sách và Đảng cần đặt vào đây một nhiệm vụ chiến lược. Trong công tác dân vận đối với đối tượng này, Đảng cần đặt song song các nhiệm vụ tập họp, huy động, khai thác với xây dựng, bồi dưỡng chăm lo. Đây là địa bàn tốt để Đảng thể hiện đầy đủ tính nhân đạo cao cả của mình ” Trong bài “ Thắp chung nén nhang cho tấn thảm kịch quá khứ ” viết ngày 19 tháng 8 năm 1995, tôi cũng đã viết : “Ai phải chịu trách nhiệm đối với những con số ghê rợn thế này: Phía Việt Nam: 1,1 triệu liệt sĩ; 559.200 thương bệnh binh; hơn 300.000 người mất tích; hơn 2 triệu dân thường bị chết; hơn 2 triệu người lớn và trẻ em bị tàn tật vì bom đạn v.v.... Phía Mỹ: 58.0900 người cả nam lẫn nữ. Đây phải là nỗi đau chung. Và, trước cái " đống xương vô định đã cao bằng đầu " ấy, trách nhiệm phải thuộc về tất cả những ai đã " gây cuộc binh đao " quá tàn khốc, quá lâu dài như vậy! Vẫn chưa hết. Những con số thống kê trên còn khuyết hẳn một mảng rất lớn. Đó là con số những liệt sĩ, những thương bệnh binh đã từng ôm súng đứng trong đội quân của tổng thống Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Khánh.... Ai mạc mặt cho họ, ai gọi hồn cho họ??!! Năm 1977, tôi đã gặp những thương phế binh thậm chí mất cả tứ chi, chỉ còn lại thân mình, nằm phơi trên đường nhựa, dưới cái nắng thiêu đốt bên chợ Bến Thành. Ít năm sau đó, trên hành trình đi lấy mẫu Cổ từ, tôi vẫn còn gặp những cựu chiến binh lê lết trong bùn nhầy nhụa ở các chợ nhỏ Đức Trọng, Đông Hà... tay ôm khư khư chiếc ăng-gô cáu bẩn. Có phép thần nào cứu họ còn sống được đến ngày nay không? Họ đã được chôn cất như thế nào? Theo báo cáo của Bộ Lao động và Thương binh Xã hội, tính đến nay có hơn 60 vạn hài cốt liệt sĩ đã được quy tập và dự kiến đến tháng 7/1997 sẽ cơ bản hoàn thành việc tìm kiếm khoảng 40 vạn hài cốt liệt sĩ còn lại. Đạt được như vậy thì tốt. Nhưng! nếu chỉ có thế thôi thì trên đất nước này vẫn còn nhiều lắm những " Hồn tử sĩ gió ù ù thổi.Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi " Mấy năm gần đây, một số người mẹ mất con, người vợ mất chồng trong các cuộc chiến đã được nhà nước CHXHCN Việt Nam quan tâm săn sóc hơn. Nhìn những bộ mặt nhăn nheo, vạc đi vì đau khổ, những bàn tay khô quắt rưng rưng đón gói quà, hay bước chân run rẩy đặt lên thềm " ngôi nhà tình nghĩa ", ai cũng thấy xúc động với một chút mừng vui an ủi lẫn ngập tràn thương cảm xót xa. Sự bù đắp này muộn màng và nhỏ nhoi làm sao! Càng ân hận hơn khi chợt nhớ đến quá nửa số người mẹ, người vợ không còn đủ sức sống tới hôm nay để nhận sự bù đắp đó. Dẫu sao, ít và muộn nhưng có còn hơn không. Chỉ e rằng, còn rất nhiều người mẹ, người vợ, cũng có chồng, có con là người Việt Nam, cũng đã từng ra trận và từng ngã xuống trên mảnh đất này, nhưng chẳng những không được ai đoái hoài, mà còn bị đẩy sang một thế giới ghẻ lạnh. Họ vừa mang chung nỗi đau mất chồng mất con của người phụ nữ, lại còn chịu chồng chất thêm cái đau bội phần của sự phân biệt đối xử, sự kỳ thị, thậm chí hất hủi. Ai giúp họ tìm kiếm hài cốt chồng con? Ai cưu mang, chăm sóc những ngày sống tàn sót lại và vong linh họ mai sau! ” Gần đây, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự viết bài mang tiêu đề như một lời kêu gọi: “ Hòa giải hòa hợp với người cộng sản và bất cứ thành phần cực đoan nào, trên thế mạnh dân tộc ”. Ông nói : “ Dân tộc phải tạo được sức mạnh tuyệt đối trên cơ sở hòa giải hòa hợp với nhau giữa các thành phần trong đại khối dân tộc ”. Tôi không trông mong gì nhiều ở những người cộng sản khi họ còn ngu tín, còn hợm hĩnh; không trông mong ở những người phía bên kia khi họ còn khăng khăng chống cộng điên cuồng nhưng tôi tin vào những trái tim đã biết thức tỉnh như vừa nêu, tin vào tấm lòng dân tộc, bản tính dân tộc, truyền thống dân tộc như đã chúng minh một cách công phu ( tôi vốn làm khoa học tự nhiên, không được hoc sử, không được học khoa học xã hội nên đã phải dày công tra cứu lắm ) trên đọan đầu bài viết này. Chắc chắn đấy là thế mạnh dân tộc. Nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự cũng xác định rằng “ Hòa giải hòa hợp …đó là niềm thôi thúc, là sự nghiệp của cả dân tộc ”. Khoan hãy bàn đây là vấn đề chiến thuật hay chiến lược, chỉ biết đây là yêu cầu bức thiết mà mọi người Việt Nam dù là đang ở trong hay ngoài nước, dù từng ở chiến tuyến nào đều phải dốc tâm thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng cao cả này. Có vậy mới mong xây dựng được đất nước Việt Nam mạnh giầu, dân tộc an lành, hạnh phúc. Hà Nội 1 tháng 11 năm 2007 Nguyễn Thanh Giang Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội Điện thoại : ( 84 ) 5 534370
|