NHỚ LẠI VỀ MÌNH

Phạm Quế Dương (Danlambao) - Sách “Đêm dày lấp lánh” vừa ấn hành ở Mỹ của Nguyễn Thanh Giang là một công trình đồ sộ. Sách viết về 60 nhân vật lịch sử đã có cống hiến lớn cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Trường Tộ, Phan Châu Trinh, Trần Độ, Trần Dần... đến Trần Huỳnh Duy Thức, Vi Đức Hồi, Phạm Thanh Nghiên, Điếu Cày, Đỗ thị Minh Hạnh... Không chỉ kể về khối lượng, với 548 trang in khổ A4, tương đương hơn một nghìn trang in khổ thông thường, sách là một biên niên sử mang hơi hướng sử thi vì được viết không chỉ bằng trí tuệ thật uyên thâm và uyên bác mà còn bằng một tấm lòng ưu ái rất đáng trân trọng.

 

Về mặt trí tuệ, nhiều bài trong “Đêm Dày Lấp Lánh” có giá trị như một bản tóm tắt luận án tiến sỹ với ngồn ngộn tư liệu và những phát hiện mới làm người đọc ngạc nhiên. 

 

Nghiên cứu về Nguyễn Trãi, tác giả đã phát hiện và chứng minh được rằng chính Nguyễn Trãi đã đưa ra một định nghĩa về “dân tộc” sớm hơn, đầy đủ hơn Stalin. Cho đến năm 1913, người ta mới đọc được một định nghĩa được xem là có giá trị đầu tiên trong lịch sử nhân loại của Stalin về dân tộc. Song định nghĩa dân tộc của Stalin chỉ nêu lên bốn yếu tố: kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, tâm lý. Trước đó, Nguyễn Trãi còn nói đến yếu tố thứ năm: nhân dân.

 

Ông kết thúc bài viết bằng một nhận thức về tầm nhân loại của tư tưởng Nguyễn Trãi:

 

“Các học giả thường nói tới bốn thế hệ nhân quyền:

- thế hệ của những quyền tự do chính trị;

- thế hệ của những quyền lợi kinh tế xã hội;

- thế hệ của các quyền lợi cộng đồng;

- thế hệ của những quyền lợi nhân loại.

 

Từ “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” đến “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, từ “yêu nuôi muôn dân, để cho các nơi làng mạc không có tiếng oán giận than sầu” đến “Hòa bình là gốc của nhạc”, “Dập tắt chiến tranh cho muôn đời”, phải chăng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã xuyên suốt bốn thế hệ nhân quyền”.

 

Các học giả Việt Nam từ xưa đến nay khi nghiên cứu về xã hội Truyện Kiều hoặc chỉ nhìn qua lăng kính định mệnh, hoặc lên án đồng tiền….Nguyễn Thanh Giang, dưới con mắt của nhà dân chủ, đã nhìn ra nguyên nhân tàn hại đời Kiều là do pháp luật không được thượng tôn. Ông dẫn ra đến hơn 30 câu Kiều có chữ “oan” và chữ “oán”. 

 

Bài viết này không dám đảm đương nhiệm vụ giới thiệu cuốn “Đêm dày lấp lánh”. Việc này phải dành cho các học giả xứng tầm. Chỉ xin được “tát nước theo mưa” để tâm sự đôi điều.

 

Trước hết phải cảm ơn Nguyễn Thanh Giang đã vì quá thương yêu mà đưa tôi vào danh sách những danh nhân trong lịch sử đấu tranh vì tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Phải chăng đây là một-cuốn-sách-bia.

 

Ngoại tám mươi, nhiều khi lẩn thẩn buồn nghĩ về cái tuổi già vô tích sự, đọc Nguyễn Thanh Giang tự nhiên thấy được an ủi rất nhiều. NTG không chỉ nhắc lại những ngày hào hùng đánh Pháp ở đồn Tu Vũ, đánh Tàu ở Biên giới phía Bắc mà còn dẫn ra những câu mình đã từng nói, từng viết mà không còn nhớ: “Góp ý với đại hôi IX đảng Cộng sản Việt Nam, trong bài “Phải cải cách chính trị cùng với cải cách kinh tế” ông (tức là tôi) viết: 

 

“…Tình hình đất nước ta ngày càng tụt hậu xa so với thế giới về kinh tế, ngay cả những nước gần cận trong khu vực. Nạn tham nhũng tràn lan không bài thuốc chũa trị, từ người lái xe ôm đến bà bán nước vùng quê đều rõ, sao những người lãnh đạo đảng CSVN không thấy mà lúc nào cũng chỉ muốn người ta tung hô Đảng sáng suốt, Đảng quang vinh, đời đời nhớ ơn Đảng... Muốn cứu vãn tình thế không thể chỉ đổi mới bằng cải cách kinh tế mà phải nhanh chóng triệt để cải cách, đổi mới chính trị. Phải nói thẳng là cải cách-đổi mới chính trị, không thể nói là cải cách-đổi mới hành chính, một kiểu nói lừa dối lương tâm... Người đứng đầu Đảng và Nhà nước (Chủ tịch nước hay Tổng thống) phải là một. Đảng cử ra ba bốn người rồi để dân trực tiếp bỏ phiếu. Không thể như hiện nay, Đảng cử ra Tổng Bí thư thì tự nhiên dân phải nhận là Vua của mình rồi. Sự thật đó là Vua của ĐCSVN chứ có phải của dân đâu... Phải thật sự bầu cử tự do. Người dân được tự do ứng cử, xoá bỏ việc mọi danh sách phải thông qua Mặt trận Tổ quốc. Đó là một việc làm lùa bịp, trấn áp trắng trợn người tài một cách bẩn thỉu, đáng khinh mà những người cầm đầu Mặt trận Tổ quốc đã có lúc tự nhận mình chỉ là “ cây cảnh”... Quân đội, công an là công cụ vũ trang của Nhà nước, không phải của riêng Đảng. Trả lại câu nói của Bác Hồ:” Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân”. Tự sửa câu nói lịch sử của Bác Hồ là bất hiếu, bất trung ... ĐCSVN phải xin lỗi vụ Nhân văn-Giai phẩm, vụ Xét lại, vụ Kim Ngọc, vụ án Trường Xuân. Các vụ này xử lý oan bao nhiêu hiền tài của đất nước...”.

 

Mấy bạn cựu chiến binh cổ lai hy đọc những đoạn ấy ngỏ lời khích lệ tôi: “Cách đây hơn chục năm mà đã dám viết được như thế thì NTG xếp ông vào hàng “Chiến sỹ dân chủ” không sai đâu”

 

Thật ra, NTG không chỉ biểu dương mà đã từng thẳng thắn phê phán tôi. Thấy tôi bị bắt, bị đưa ra tòa xử tội và bị tống vào tù, như là vừa thương vừa giận, NTG đã trách móc tôi ăn nói bỗ bã đốp chát quá với tổng bí thư Nông Đức Mạnh, chủ tịch nước Lê Đức Anh. Xin lỗi NTG, cho đến bây giờ tôi vẫn không ân hận, sám hối gì. Với cái tội đưa Trung Quốc vào khai thác bauxite ở Tây Nguyên, nói Nông Đếch Mạnh như tôi còn quá nhẹ. Bỏ vợ ốm chết để hú hý với người tình của con thì thật là Nông-Đức-nông-tài. Thời Mạnh làm Tổng bí thư đã dấy lên phong trào học tập đạo đức Hồ Chí Minh. Hẳn là ông ta thấm nhuần đạo đức Hồ Chí Minh sâu sắc lắm nên mới như thế. 

 

Về ông Lê Đức Anh thì xin kể thêm câu chuyện sau:

 

Hồi làm Tổng biên tập tạp chí Lịch sử Quân sự tôi thường tiếp xúc trực tiếp để lấy tài liệu viết về các vị tướng như Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà... Thấy vậy, cậu Ngọc - thư ký riêng của Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh - bốn lần mời tôi đến gặp Đại tướng nhưng tôi đều tìm cớ đánh lảng. Lúc ấy Lê Đức Anh có tiếng xấu về vụ thảm sát tướng Nguyễn Bình và vụ Năm Châu Sáu Sứ, bây giờ lại lộ thêm vụ Thỏa ước Thành Đô 1990 thì tôi khẳng định rằng nặng lời như vậy vẫn còn quá nhẹ.

 

Sau khi Đại tướng Văn Tiến Dũng thôi chức Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng (1986), Tết tôi theo một số tướng lĩnh đến nhà riêng chúc Tết. Các tướng lĩnh chúc tết Đại tướng, nhưng tôi thì ngồi yên. Khi phu nhân Đại tướng bước vào tôi mới đứng dậy: “Cháu xin chúc Tết cô khỏe mạnh, bình an, mọi sự may mắn”. Phu nhân của Đại tướng là bà Tám Kỳ. Bà hỏi: “Anh là ai?”. “Cháu là Phạm Quế Dương là cháu của ông Sung” (Ông Sung là bác của bà Tám Kỳ). Bà cười rất vui: “Thế à”. Quay lại, tôi mới chúc tết Đại tướng Văn Tiến Dũng. Khi ra về, vài vị tướng hỏi tôi khi Đại tướng còn đương chức sao không đến thăm và chúc tết Đại tướng. Tôi trả lời: “Em không đến, vì sợ người ta cho là có ý đồ cậy cục”. 

 

Không biết Nguyễn Thanh Giang lấy tài liệu từ đâu mà đã viết như sau: 

 

“Bà Đỗ thị Cư - nguyên phó giám đốc Lâm trường Yên Bái, đảng uỷ viên đảng bộ Bộ Lâm nghiệp– đã viết về chồng mình- đại tá Phạm Quế Dương - như sau: “Gia đình tôi tự hào có người chồng chung thủy, người cha mẫu mực, người ông hiền hoà. Đối với họ tộc giữ được nếp gia phong, kính trên nhường dưới. Đối với bạn bè chân thành cởi mở. Đối với cấp dưới khoan dung độ lượng. Không ỷ quyền nạt nộ kẻ dưới. Biết thương yêu đồng đội lúc khó khăn. Không phân biệt kẻ sang người hèn. Đối với cấp trên, anh Dương có cá tính đặc biệt, không cơ hội, khom lưng, nịnh hót, cầu lợi cá nhân, chỉ phục tùng người thực sự có tài và rất tôn trọng người tài. Nếu như ai đó bất tài, thất đức thì dù ở cấp cao đến mấy cũng không thần phục được anh Dương. Chính vì thế mà anh luôn bị thiệt thòi và gặp rất nhiều gian truân trong suốt quá trình công tác của mình... Anh là người dám nói trước những điều nhiều người biết nhưng không dám nói, dám làm những việc nhiều người thấy cần phải làm nhưng không dám làm...”.

 

Rất cảm ơn Nguyễn Thanh Giang đã gợi lại cái quá khứ không đến nỗi đáng chê trách để tôi được an ủi phần nào trong những ngày cuối đời buồn tủi. Hy vọng rằng con cháu của 60 vị được tôn vinh trong cuốn “Đêm dày lấp lánh” cũng sẽ được tự hào về cha ông mình mà noi gương sáng dấn thân mạnh mẽ cho tiến trình dân chủ hóa nước nhà.

 

Hà Nội 30 tháng 8 năm 2014 

Khu Tập thể 37 Lý Nam Đế - Hà Nội

ĐT: 04. 63700002.

 

************

TRÒ THÁU CÁY CỦA LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC

Do Trung Quốc mời mà ông Lê Hồng Anh đã đến Bắc Kinh từ ngày 26 đến 27/8 trong tư cách đặc phái viên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Khác với cách đây mấy tháng, Nguyễn Phú Trọng xin mà Tập Cận Bình cũng không cho sang.

Điều đó chứng tỏ rằng Trung Quốc có thể đã nhất thời xuống thang vì bẽ mặt trước dư luận quốc tế phản ứng đối với hành động đạo tặc của HD 981.

Tuy nhiên, ngay lúc này họ vẫn thò cái bộ mặt gian xảo của họ ra trên giấy trắng mực đen.

Tuyên bố chung về “Nhận thức chung nguyên tắc ba điểm về tiếp tục phát triển quan hệ Trung-Việt” sau chuyễn đi của ông Lê Hồng Anh do Tân Hoa Xã Trung Quốc phát đi như sau::

  • Lãnh đạo hai Đảng, hai nước sẽ tiếp tục tăng cường chỉ đạo trực tiếp phát triển quan hệ song phương, thúc đẩy quan hệ Trung-Việt trước sau như một phát triển lành mạnh, ổn định.
  • Hai bên cần phải tiếp tục sâu sắc giao lưu giữa hai Đảng, nhìn về lâu dài khôi phục và tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực quốc phòng, kinh tế-thương mại, an ninh hành pháp, nhân văn, v.v.
  • Hai bên đồng ý tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo hai Đảng và hai nước, nghiêm túc thực hiện "Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa hai nước Trung-Việt", vận dụng tốt cơ chế đàm phán Chính phủ về biên giới Trung-Việt, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu và thương lượng về vấn đề cùng khai thác, không áp dụng hành động làm phức tạp và mở rộng tranh chấp, giữ gìn đại cục của quan hệ Trung-Việt cũng như hoà bình và ổn định của Nam Hải.

Trong khi đó, Thông Tấn Xã Việt Nam nói ba nội dung này là:

  • Lãnh đạo hai Đảng, hai nước Việt Nam-Trung Quốc tăng cường hơn nữa việc chỉ đạo trực tiếp đối với quan hệ hai Đảng, hai nước, thúc đẩy quan hệ Việt-Trung không ngừng phát triển lành mạnh, ổn định.
  • Hai bên tăng cường giao lưu giữa hai Đảng, hai nước; khôi phục và tăng cường hợp tác giữa hai bên trên mọi lĩnh vực như chính trị ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế, thương mại, thực thi pháp luật, nhân văn...
  • Hai bên tuân thủ các nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc,” sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc; tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, kể cả vấn đề hợp tác cùng phát triển; kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; duy trì đại cục quan hệ Việt-Trung và hòa bình, ổn định trên Biển Đông.

Hai bản văn trên không giống nhau và có thể đã bị Trung Quốc xuyên tạc theo ý họ:

Ở điểm thứ nhất, phía Việt Nam chỉ nêu thúc đẩy quan hệ Việt-Trung không ngừng phát triển lành mạnh, ổn định thì phía họ thêm vào mấy chữ trước sau như một.

Dứt khoát không thể trước sau như một nữa. Trước đây do bị lường gạt quan hệ ta với họ là quan hệ thầy-trò, quan hệ lính lệ-chủ soái, đưa dân ta đi vác cờ cho họ, đổ máu vì họ. Bây giờ ta với họ như chèo bẻo-diều hâu. Cùng chung sống trong bầu trời nhưng nếu láng cháng thì sẵn sàng lao tới đánh đuổi. 

Ở điểm thứ hai, phía Trung Quốc đã đưa thêm các chữ cần phải tiếp tục sâu sắc …. nhìn về lâu dài.

Giao lưu thì cứ giao lưu, tùy tình hình mà điều chỉnh mức độ. Mệnh lệnh nào buộc ai cần phải, mà cũng không nhất thiết cứ phải sâu sắc.

Giao lưu như thế nào thì tùy nhu cầu của mỗi bên, thực tế đổi trắng thay đen đã cho thấy, biết thế nào mà nhìn về lâu dài.

Trong điểm thứ hai này đáng cảnh giác nhất là phía Trung Quốc đưa thêm các chữ tăng cường hợp tác trong lĩnh vực …  an ninh hành pháp trong khi Việt Nam chỉ đặt vấn đề tăng cường hợp tác giữa hai bên trên mọi lĩnh vực như … thực thi pháp luật.

Phải chăng Trung Quốc muốn nhắc lại Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc do Nguyễn Phú Trọng ký kết với Hồ Cẩm Đào để tạo cơ hội đưa công an, quân đôi Trung Quốc vào Việt Nam?.

(Điểm Năm trong khoản 4 của Tuyên bố trên ghi rõ một điều cực kỳ ngu xuẩn và tội lỗi: “Năm là, đi sâu hơn nữa hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh … cùng phòng ngừa và tấn công các hoạt động vi phạm pháp luật, tội phạm xuyên biên giới; tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong việc giữ gìn ổn định trong nước của mình”). 

Gian trá, lếu láo hơn cả là, ở điểm thứ ba Trung Quốc đã gài câu: tích cực nghiên cứu và thương lượng về vấn đề cùng khai thác… Nam Hải.

Biển Đông đã là của Việt Nam từ ngàn đời nay chứ có phải của chung Việt Nam – Trung Quốc đâu mà đặt vấn đề cùng khai thác được.

Dứt khoát tàu thuyền Trung Quốc không được vào đánh bắt thủy hải sản ở Biển Đông (Khi họ vào đánh cá ở lãnh hải Phillipin đã bị nước này bắt bỏ tù và nộp phạt).

Dứt khóat Trung Quốc không được đưa giàn khoan vào thăm dò khai thác dầu khí ở Biển Đông, ngoại trừ trường hợp Việt Nam mời họ vào ký kết hợp đồng ăn chia theo tỷ lệ Việt Nam ấn định.

Rõ ràng, không thể một phút lơi là không cảnh giác với Bắc Triều. Trong bài viết “Có nên đặt vấn đề Thoát Trung” tôi đã tha thiết kêu gọi: “Hãy khắc ghi vào tâm trí chúng ta khẩu hiệu “Hãy cảnh giác với Bắc Triều” bằng chỉ thị, nghị quyết, bằng thường xuyên nêu trong mục kiểm điểm ở các chi bộ Đảng, các buổi hội họp của các tổ chức dân sự, bằng thơ văn, nhạc, họa …”

 Thế mà! Mấy ngày nay lại có tin hàng vạn lao động người nước ngoài đang rầm rập đổ vào Vũng Áng-Hà Tĩnh, trong đó có nguồn tin cho biết "trên 90% trong tổng số gần 11.000 lao động tuyển dụng mới mang quốc tịch Trung Quốc".

Chưa nói đến hiểm họa Thành Troa, chỉ trông vào con số 24 000 kỹ sư, cử nhân Việt Nam hiện đang không có công ăn việc làm cũng thấy bất cứ do đâu, bất cứ vì cấp chính quyền nào để xẩy ra tình trạng trên cũng không thể chấp nhận được.

Hãy cảnh giác với Bắc Triều!

Hãy cảnh giác với Trung Nam Hải!

Hà Nội 28 tháng 8 năm 2014 

  Nguyễn Thanh Giang     

 Số nhà 6 – Ngõ 235 đường Trung Văn

Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội    

Mobi: 0984 724 165

************